Những câu chuyện ý nghĩa

Những câu chuyện ý nghĩa
Những câu chuyện ý nghĩa

Wednesday, September 26, 2018

Lương Tâm



Lương Tâm


Có hai người phụ nữ tìm đến một vị đạo sĩ rất nổi tiếng là nhân đức và thánh thiện để xin một vài lời khuyên bảo về con đường nhân đức.

Người phụ nữ thứ nhất mang trong mình mặc cảm tội lỗi. Bà luôn nghĩ mình là một tội nhân, vì hồi còn trẻ, trong những năm chồng bà đi làm xa, bà đã thất trung với chồng. Nhưng rồi bà đã ăn năn thống hối và tiếp tục sống một cuộc sống gương mẫu trong vai trò làm mẹ cũng như làm vợ. Dầu vậy, bà vẫn không bao giờ quên được tội lỗi nặng nề ấy và lương tâm bà vẫn áy náy không yên.

Người phụ nữ thứ hai cảm thấy mình là người chính trực, vì luôn sống theo luật Chúa. Lương tâm bà bình an và không khiển trách gì bà.

Nhà đạo sĩ kiên nhẫn lắng nghe mỗi bà dốc cạn nỗi lòng. Người phụ nữ thứ nhất nức nở kể lễ và ân hận vì tội lỗi của bà quá nặng nề không thể nào được Chúa thứ tha. Trái lại, người phụ nữ thứ hai cảm thấy mình chính trực không có tội gì phải xưng thú cả. Nhà đạo sĩ liền nói với người phụ nữ thứ nhất:

«Bà hãy đi tìm một hòn đá thật lớn mà sức bà có thể khiêng được đem tới đây cho tôi».

Quay sang người phụ nữ thứ hai, nhà đạo sĩ nói:

«Bà hãy đi nhặt những hòn đá thật nhỏ nhiều bao nhiêu bà có thể mang được trong cái khăn choàng vai của bà rồi đem tới đây cho tôi».

Hai người phụ nữ liền mau mắn thi hành lời vị đạo sĩ dạy bảo. Người phụ nữ thứ nhất khệ nệ đem tới một hòn đá thật lớn. Còn người thứ hai với cái khăn đầy cả trăm viên đá sỏi nhỏ. Nhà đạo sĩ mĩm cười nói với hai bà:

Bây giờ tôi xin hai bà làm thêm một việc khác nữa, là các bà hãy đem trả hòn đá lớn cũng như những viên đá sỏi nhỏ kia trở về đúng chỗ cũ của nó. Ðiều quan trọng là phải đúng với chỗ mà các bà đã nhặt nó.

Một lần nữa, hai người phụ nữ mau mắn thi hành mệnh lệnh của nhà đạo sĩ. Người phụ nữ thứ nhất tìm ngay được chỗ cũ của hòn đá mà bà đã lấy bởi vì chỉ có một hòn duy nhất. Trái lại, người phụ nữ thứ hai loanh quanh lẩn quẩn cả giờ, nhưng vô ích, bởi vì bà không tài nào mà nhớ hết được đúng chỗ của mỗi viên đá sỏi ấy. Bấy giờ bà đành trở lai với cái khăn choàng vai đầy những viên đá sỏi nhỏ ấy.

Vị đạo sĩ nói với người phụ nữ thứ nhất:

«Bà đã đem trả lại chỗ cũ của hòn đá đó một cách dễ dàng. Cũng một cách tương tự, với tội lỗi của bà, bà đã biết khiêm nhường nhìn nhận tội lỗi mình nặng nề và đã thành tâm ăn năn thống hối, bà đã được Thiên Chúa thương tha thứ cho bà, bây giờ bà không nên lo lắng áy náy chi nữa».

Quay sang người phụ nữ thứ hai vị đạo sĩ nói tiếp:

«Còn bà như đã không thể trả lại được chỗ cũ của những viên đá sỏi, bà cũng không nhìn thấy được các lỗi lầm nho nhỏ để ăn năn thống hối».

● ● ●

Quý vị và các bạn thân mến,

Lời chỉ giáo của nhà đạo sĩ thật khôn ngoan và cũng là lời giải đáp cho những người hay thắc mắc mỗi lần nghe nói đến bí tích hòa giải. Họ thường hỏi phải xưng thú tội lỗi gì đây, thực ra cũng không có tội gì nặng nề lắm, nhưng chính sự chểnh mảng không quan tâm những lỗi lầm nho nhỏ, những khuyết điểm thầm kín, dần dần họ trở thành chai đá mất đi sự bén nhạy của lương tâm để phân biệt điều hoàn thiện và việc gian ác.

«Lạy Chúa, trước nhan thánh Chúa, trong sự lặng tĩnh của tâm hồn, con nghe tiếng Chúa khiển trách con: Hãy lấy cái xà trong mắt đã rồi mới lấy cái rác nơi mắt anh em. Con thật mù quáng biết bao khi con chỉ nhìn thấy tội lỗi của người khác nhưng lại không nhìn ra tội lỗi thầm kín của con».

«Lạy Chúa, Chúa thấy rõ sự yếu hèn hạn hẹp và tính hướng chiều về sự tội lỗi của con. Xin Chúa giúp con khiêm tốn nhìn nhận tội lỗi con để được Chúa thanh tẩy và con biết đáp lại tình yêu Chúa. Yêu mến Chúa trên hết mọi sự, trên cả chính bản thân con. Amen».
Ngọc Nga sưu tầm


Câu chuyện trên dễ làm chúng ta gợi nhớ đến dụ ngôn sau đây trong Tin Mừng:

Dụ Ngôn người Pharisêu và người thu thuế (Lc 18,9-14)

(9) Ðức Giêsu còn kể dụ ngôn sau đây với một số người tự hào cho mình là công chính mà khinh chê người khác: (10) «Có hai người lên đền thờ cầu nguyện. Một người thuộc nhóm Pharisêu, còn người kia làm nghề thu thuế. (11) Người Pharisêu đứng riêng một mình, cầu nguyện rằng:Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. (12) Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con”. (13) Còn người thu thuế thì đứng đàng xa, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa rằng:Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”. (14) Tôi nói cho các ông biết: người này, khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi; còn người kia thì không. Vì phàm ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”.

Sunday, September 23, 2018

Cậu bé gọi 911 nhờ tìm mẹ trên thiên đường



Cậu bé gọi 911
nhờ tìm mẹ trên thiên đường,
và câu trả lời đầy xúc động
của chú cảnh sát


Viên sỹ quan Tommy Lee đang ngồi trong văn phòng của cảnh sát 911 ở một thị trấn nhỏ thì chuông điện thoại reo. Ông nhấc máy hỏi han nhiều lần nhưng đầu dây bên kia chỉ im lặng…


Đợi một lúc lâu, ông vẫn không thấy có động tĩnh gì. Đoán là một chú nhóc nghịch dại, ông cảnh cáo:

«Này nhóc, gọi 911 để đùa nghịch là vi phạm pháp luật đấy có biết không? Chú biết nhiều vị quan toà thích dạy cho những đứa bé hư kiểu đó một bài học đấy.» Ông cao giọng.

Thế rồi, giọng một bé trai cũng cất lên, nhỏ nhẹ nhưng nghiêm túc: «Bác ơi, cháu muốn tìm mẹ cháu. Bố cháu nói mẹ cháu đang ở trên thiên đường. Cách đây mấy hôm mẹ đi bệnh viện, dặn cháu và anh trai ở nhà chờ mẹ. Đến giờ mẹ cháu vẫn chưa về…»


Vị cảnh sát chợt chùng xuống. Nghe những lời của cậu bé, ông hiểu sâu sắc rằng, Jerry (tên của cậu bé 5 tuổi) đang trong giờ phút khó khăn nhất của cuộc đời mình.

«Mẹ cháu trông ra sao, con trai?» Ông hỏi Jerry.

«Mẹ có rất nhiều khăn choàng các màu. Mẹ luôn quàng khăn khi đi ra ngoài. Chúng đẹp lắm và cháu nhớ mẹ lắm.»

Câu nói hồn nhiên ngây thơ của Jerry khiến ông Lee thấy cay cay nơi khóe mắt. Jerry không thể biết rằng, mẹ cháu đã ra đi mãi mãi. Cậu sẽ không bao giờ được mẹ xoa chân khi bị đau và được mẹ hát cho nghe bài hát yêu thích. Cháu quá nhỏ để hiểu được sự thật này.

Ông tiếp tục tâm sự với cậu bé, làm cho cậu tin rằng, dù mẹ ở trên thiên đường, nhưng mỗi giây, mỗi phút bà đang dõi theo cậu, và mong cậu luôn ngoan, học giỏi và hạnh phúc.

«Khi nào bố đưa đi chơi, cháu hãy bảo bố mua cho một quả bóng màu đỏ nhé. Hãy viết vào một mảnh giấy những gì cháu muốn nói với mẹ, và buộc vào bóng, cho nó bay lên. Mẹ cháu ở trên thiên đường sẽ nhận được thư của cháu đấy». Kết thúc cuộc điện thoại ông khuyên Jerry.

Ngày hôm sau, Jerry đi chơi với bố và xin bố mua cho nhiều quả bóng màu đỏ, bởi cháu muốn viết thật nhiều thư cho mẹ…


Vài tháng trôi qua. Điện thoại lại đổ chuông. Lần này, Tommy không phải chờ lâu, giọng Jerry đã vang lên ở đầu dây bên kia:

«Tommy, cháu muốn bác tìm mẹ cho cháu. Mẹ không nhận được tin nhắn của cháu.»

Jerry tỏ vẻ lo lắng: «Tháng nào cháu cũng viết cho mẹ, nhưng hình như mẹ không nhận được chúng. Cháu không muốn nói dối mẹ, cháu là một chú bé ngoan. Cháu đã làm bài tập về nhà. Cháu muốn mẹ ôm cháu».

«Bình tĩnh nào, con trai. Cháu sẽ ổn thôi. Có lẽ mẹ cháu đang đi xa. Vì thế mẹ không nhận được tin nhắn của cháu. Nhưng thế nào mẹ cũng sẽ nhận được. Chỉ cần cháu vẫn tiếp tục viết những gì cháu muốn mẹ làm cho cháu vào một tờ giấy. Bác hứa với cháu là ở trên thiên đường mẹ sẽ đọc chúng.»

Sau đó, lời hứa của một viên cảnh sát, của một quân nhân, và hơn cả là lời hứa của một con người có trái tim vô cùng nhân hậu được hiện thực bằng một cuộc viếng thăm có một không hai. Jerry đã tự hào và hạnh phúc biết bao khi mẹ bé cử cả một đoàn xe cảnh sát với vô kể bóng bay màu đỏ, thay mặt mẹ, đến thăm em.


«Này, Jerry, mẹ cháu đã nhận được những mẩu giấy nhắn tin của cháu. Mẹ rất vui sướng vì cháu đã học tập tốt. Tuy nhiên mẹ cháu vẫn còn đang đi xa nên mẹ không đến đây được. Vì thế mẹ cháu đã nhờ bác đến nói với cháu là mẹ rất yêu cháu và rất nhớ cháu.»

«Mẹ đã biết cháu được điểm A môn văn…»

«Hãy tiếp tục viết cho mẹ cháu nhé. Mẹ luôn quan tâm tới cháu và luôn mong được biết cháu học tập có tốt không».

Trước khi ra về, Tommy bắt tay Jerry rồi ôm cậu bé vào lòng. Hành động ấm áp thể hiện sự tin tưởng tuyệt đối mà hai ông cháu trao cho nhau trong ánh hoàng hôn hôm đó sẽ mãi khắc ghi trong tâm hồn cậu bé. Các thành viên trong đội cảnh sát 911 có mặt hôm ấy cũng hiểu rằng mình đã vừa hoàn thành một nhiệm vụ vô cùng quan trọng.


Riêng với Tommy, tình cảm của ông dành cho Jerry càng lúc càng trở nên sâu sắc. Cậu bé tin tưởng ông, tin những câu chuyện về mẹ cậu mà ông kể. Còn Tommy, ông như tìm thấy tuổi thơ của mình trong ánh mắt trong trẻo và tình yêu vô tận mà cậu bé dành cho mẹ.

Kể từ đó, vị cảnh sát già đáng kính có thêm một niềm vui mới. Chiều chiều, ông lặng lẽ tạt qua trường Jerry, nhờ cô giáo cho xem bài tập mà Jerry đã làm trên lớp. Ông tìm mua những món quà mà ông tin rằng Jerry sẽ thích. Trái tim ông ấm lại khi người bán đồ chơi hỏi: «Cháu trai của ông thích xe mô tô lắm phải không?» Vâng! Đó là đứa cháu trai tuyệt vời mà Thượng Đế ban tặng cho ông…


Còn Jerry ngây thơ đáng yêu vẫn luôn nhận được những thông điệp kèm những món quà nho nhỏ mà mẹ gửi cho cậu bé từ trên thiên đường. Tất nhiên chúng ta biết ai đã gửi chúng cho cậu.


«Jerry bé nhỏ yêu quý! Bức tranh con vẽ mẹ mới đẹp làm sao. Mẹ thích lắm, nhất là đôi mắt, nó làm mẹ nghĩ đến đôi mắt của con. Yêu con rất nhiều. Mẹ.»

«Jerry yêu thương, bài tập làm văn về chuyến đi thăm quan khu phố của con thật là tuyệt vời. Nó khiến mẹ nhớ khu phố của chúng ta quá. Luôn mãi yêu con. Mẹ.»

Năm tháng trôi đi, Jerry trưởng thành và hiểu ra sự thật. Vấn đề đặt ra là: Tommy đúng hay sai? chẳng ai có thể trả lời chính xác. Tuy nhiên, có một điều chắc chắn rằng cậu bé Jerry đã vượt qua được quãng thời gian khó khăn nhất trong cuộc đời của cậu nhờ những bức thư và những món quà động viên của mẹ trên “thiên đường”.

Nếu chỉ nhìn vào tấm lòng của viên sĩ quan Tommy, thì đúng sai đôi khi không còn quan trọng. Và nếu cuộc đời của một con người trở nên tốt đẹp và lương thiện hơn nhờ những lời nói dối đầy chân thành ấy, thì mọi quy tắc và chuẩn mực đều trở nên thừa thãiMột điều được đánh giá là đúng hay sai, có lẽ phải xét từ cái tâm của người trao đi

Theo thethaoso360

Wednesday, September 19, 2018

Câu chuyện về trái táo



Câu chuyện về trái táo


Xung quanh cuộc sống của chúng ta luôn có biết bao câu chuyện ý nghĩa, nhân văn. Thành Hưng xin chia sẻ đến các bạn câu chuyện cảm động về tình cảm mẫu tử thiêng liêng. Chắc chắn, câu chuyện xúc động này sẽ mang đến cho bạn những cung bậc cảm xúc khác nhau.


Chuyện kể rằng có một em bé gái đáng yêu sống với bố mẹ trong căn hộ nhỏ. Một ngày nọ, em bé được bố cho hai quả táo đỏ, to và trông rất ngon. Em bé đang ngồi trong phòng thì mẹ bước vào.

Mẹ em bé nhìn em cười trìu mến và hỏi: «Con có thể chia cho mẹ 1 trái táo được không?». Em bé nghe xong câu hỏi liền nhìn mẹ rồi lại nhìn xuống hai trái táo. Đột nhiên, em bé cắn vào hai trái táo, mỗi trái một miếng. Người mẹ khá bất ngờ, trên khuôn mặt xen lẫn sự thất vọng nhưng vẫn mỉm cười nhìn em nhỏ.

Ngay sau đó, cô bé đột nhiên đưa cho mẹ một trái táo cắn dở và nói: «Mẹ ơi! Mẹ ăn trái này nhé, vì nó ngon hơn mẹ ạ!».

Mẹ em bé gái vì xúc động không nói lên lời, chỉ kịp đón lấy trái táo và ôm con gái nhỏ vào lòng.

Lời bình:

Các bạn thấy đấy, câu chuyện tưởng chừng rất đơn giản nhưng lại chứa đựng ý nghĩa rất cao cả. Trẻ em như một tờ giấy trắng, hễ người lớn chỉ bảo sao thì chúng nghe vậy.

Như trong câu chuyện ấy, chắc hẳn người đọc cũng sẽ ngầm hiểu, à, bố mẹ cô bé chắc hẳn phải là người rất nhân hậu. Không những vậy, họ còn luôn ý thức giáo dục con cái mình về lòng yêu thương, sự trắc ẩn với những người thân xung quanh. Bố mẹ luôn yêu thương, khuyên bảo con đúng mực, nhẹ nhàng, chắc chắn mỗi đứa bé sẽ là một em bé ngoan.


Qua câu chuyện về trái táo, chúng tôi cũng rất mong gia đình bạn sẽ luôn yêu thương, trân trọng nhau. Đặc biệt, với những ai đang có con nhỏ – lứa tuổi ngây thơ, hãy nên dạy cho con những điều tốt đẹp nhất.

Chúc các bạn và gia đình có những phút giây ấm áp bên nhau.
Thành Hưng

Bạn có đủ «dũng khí» để giữ cho tâm mình luôn an tĩnh?



Bạn có đủ «dũng khí» để giữ cho tâm mình luôn an tĩnh?



GD&TĐ - Có những thứ trên đời, bạn càng dụng tâm giải quyết nó thì lại càng không cách nào giải được. Đôi khi, chỉ cần bạn lặng yên chờ đợi, tĩnh tâm, mọi sự tự khắc đã được định đoạt hết cả rồi!

Hôm ấy đạo sư có việc ở một làng quê hẻo lánh và đưa đệ tử đi theo. Cả hai đều đi bộ. Dọc đường, đạo sư bảo đệ tử tạm nghỉ chân dưới một tàn cây xanh um, như cái dù lớn che nắng trưa chói chang. Cách đó xa xa là một dòng suối nhỏ chắn ngang.

Đạo sư bảo: «Thầy khát rồi. Con lấy dùm thầy chút nước nhé!».

Đệ tử nhanh nhảu xách theo chiếc vò và bước tới con suối. Đến nơi, anh tần ngần nhìn dòng nước, rồi nhìn sang bên bờ kia thì bắt gặp một đàn bò còn ướt lông. Hiểu ra cớ sự, anh quay lại gặp sư phụ, bộc bạch:

«Thưa thầy, người ta mới vừa dắt bò qua suối. Nước bị quậy lên đục ngầu nên con không dám…»

Đạo sư ôn tồn: «Được rồi con. Vậy mình chờ một chút».

Khoảng mười lăm phút sau, đạo sư bảo: «Lấy nước đi con!»

Đệ tử sốt sắng xách vò trở lại bờ suối. Anh thấy nước bớt đục hơn, nhưng vẫn chưa thể dùng được. Lập tức quay về chỗ sư phụ, áy náy nói:

«Thưa thầy, vẫn chưa uống được đâu ạ».

Đạo sư mỉm cười: «Không sao. Mình chờ thêm một chút nữa».

Rồi ngài xếp bằng, hai bàn tay kết lại, sửa dáng cho thẳng lưng, lim dim đôi mắt, yên lặng dưỡng thân dưới bóng râm của tàn cây.

Khoảng nửa giờ sau, đệ tử ấy trở lại bờ suối. Bây giờ nước đã trong veo, có thể nhìn thấu lớp sỏi dưới đáy. Anh rón rén bước xuống để khỏi khuấy động, và cố lựa chỗ trong nhất để múc đầy vò nước mát mang về dâng thầy.

Đạo sư đón lấy cái vò, nhìn vào rồi bảo:

«Con xem, giờ chúng ta đã có những giọt nước trong trẻo, mát ngọt rồi này. Thật ra, có những việc con không cần làm gì cả, chỉ cần kiên nhẫn đợi cho cặn cáu có đủ thời gian để nó tự lắng xuống. Tâm con cũng thế.

«Khi tâm con nổi sóng, điên đảo, con đừng tìm cách này cách kia để cố dẹp yên nó, con hãy cho nó đủ thời gian để nó tự lắng xuống. Vậy nên khi con giận ai, con đừng nghĩ tới họ nữa, cũng đừng tranh cãi hơn thua, hãy hướng tư tưởng con sang việc khác, tốt nhất là con làm thinh, giả mù, giả điếc, tự nhiên cái tâm này sẽ tĩnh lại được ngay thôi!».

Đệ tử đáp: «Thưa thầy, nhưng thường đang lúc tâm trạng bất bình thì con lại không nhớ được cách để thoát ra!».

Đạo sư gật đầu: «Phải rồi. Nhưng chỉ sau khi phạm sai lầm xong rồi thì mình mới biết là mình sai lầm. Như thế vẫn còn khá hơn là không nhận ra sai lầm mình vừa mắc phải.

«Mỗi một tình huống trong cuộc sống là một bài khảo thí trình độ tâm tính của con. Đối mặt với vạn sự trên đời, có thể tĩnh lại được là thể hiện của công phu, dám tĩnh lại hay không cũng cần thêm dũng khí!» …

Tuesday, September 18, 2018

«Lấy nhau chẳng đặng, thương hoài ngàn năm»



«Lấy nhau chẳng đặng, 
thương hoài ngàn năm.»


Lần đầu gặp anh, chị mới 16 tuổi, nhỏ xíu, tóc bó đuôi gà, đôi môi mỏng lém lỉnh. Hôm ấy, Ba chị đưa về một thanh niên trẻ người Mỹ, giới thiệu người phụ tá của mình với gia đình, anh đã nhìn chị không chớp mắt. Đến khi chị vênh mặt hỏi «Tôi có chỗ nào không ổn», anh mới ngượng ngùng sực tỉnh, lí nhí… nói câu xin lỗi!

Không biết sao anh bị chị thu hút, đến mất hồn mất vía, còn chị thì tỉnh rụi, chẳng để ý gì đến anh chàng người Mỹ đồng nghiệp của ba mình. Sau đó anh hỏi Ba chị thuê hẳn một tầng lầu trên cùng để ở, thì chị và anh gặp nhau mỗi ngày.

Sống chung nhà, nhưng đường ai nấy đi, đối với chị, anh là bạn của Ba, người lớn rồi, nên chị không coi anh như bạn bè của mình, nhưng rồi chị cũng biết anh mới 24 tuổi, đến từ Washington DC, nhiệm sở ở VN này là công việc đầu tiên của anh sau khi tốt nghiệp đại học. Tuy còn bỡ ngỡ với xã hội VN, nhưng lạ một điều là anh nói tiếng Việt giọng Bắc rất chuẩn và lưu loát như được đào tạo qua trường lớp đàng hoàng.

Anh ít nói nghiêm nghị, nhưng mỗi lần gặp chị, anh lúng túng, mặt mày đỏ gay, làm chị nổi tính nghịch ngợm, muốn trêu anh.

Có lần trong bữa ăn, chị đưa cho anh quả ớt tròn đỏ, rất đẹp, chị bỏ nguyên trái vô miệng, nói ngon lắm, và đưa cho anh một trái, bảo ăn thử. Anh tưởng thật, bắt chước chị, bỏ vô miệng nguyên trái, nhai rốt rột, rồi anh sặc, anh ho, anh khóc, còn chị nhả trái ớt ra, ôm bụng cười ngặt nghẽo. Anh cay quá, có ý giận, cầm cốc nước bỏ lên lầu một mạch.

Đến tối không thấy anh xuống, thấy cũng tội nghiệp, chị sai thằng em bưng lên cho anh ly nước đậu nành tạ tội, nhưng thằng em xuống nói anh ấy không có ở trên lầu, đi đâu rồi?

Chị có ý đợi, muốn thử coi sau khi ăn trái ớt, mặt mũi anh ra sao? Nhưng mấy ngày liền anh không về, nghe Ba nói với mẹ anh đi công tác.

Cả tuần không gặp, chị thấy thiếu thiếu, chị nghĩ có lẽ tại mình chơi ác với người ta nên mình thấy có lỗi, áy náy đó thôi.

Tuần sau anh về, bước vô nhà thấy chị, còn tức nên vờ như không thấy, anh xách vali đi thẳng lên lầu, từ đó anh luôn giữ vẻ mặt lạnh lùng làm chị thấy... tự ái ghê gớm luôn.

Một hôm chị đang học thi tú tài, ban đêm ở trường thầy Hai Ngô về, từ đường Nguyễn Huệ đạp xe về tới nhà chị cũng khá xa, vừa tới góc ngã ba hơi tối, xe chị tự nhiên trở chứng, phải dắt bộ về, đường tối chị thấy sợ ma. Vừa đi vừa run, vậy mà xui khiến sao gặp anh, đang lái xe đi ngang mặt, tài thật anh nhận ra chị ngay, và «de» xe ngược lại. Dù đang giận, nhưng chị cũng để anh giúp, đem xe về nhà. Trên đường về anh không nói, chị cũng không…(đang hờn mát mà).
Gần tới nhà, anh quay qua nhẹ giọng hỏi chị: «Sao em ghét tôi quá thế?»
Bị hỏi thình lình, chị ấm ớ: «Tôi có ghét anh đâu?».
Anh nhìn vào mắt chị (trời ạ, tối thui, sao mắt anh ấy sáng thế, xanh biếc như hai vì sao...).
«Thế sao em vẫn muốn tôi khóc, để em cười?»
Tự nhiên chị thấy lúng túng. May quá tới nhà, chị cảm ơn, rồi vội vã xuống xe vào nhà, để anh ngẩn ngơ nhìn theo…

Đêm ấy lạ ghê, không ngủ được, chị cứ thấy đôi mắt như hai ánh sao của anh chập chờn trước mặt, lần đầu tiên chị mất ngủ vì một chàng trai.

Sáng ra, trước khi đi học chị có ý chờ xem có gặp anh không, nhưng không gặp, đến giờ, chị phải đi học thôi. Chiều về chị cũng không gặp. Ba chị nói, anh về nước có chuyện gấp.

Mấy ngày anh không có ở nhà, chị như người mất hồn, cứ ra vô, ăn ngủ không yên. Lạ nhỉ, sao tâm trạng mình bất ổn như vậy?

Đến khi anh về, vừa thấy anh bước vô từ cửa, chị mừng như bắt được vàng, ánh mắt long lanh, chị cười nói huyên thuyên. Anh bỏ vali xuống, rạng rỡ nhìn chị, âu yếm lắng nghe và cuối cùng hỏi chị một câu:

«Em nhớ tôi lắm hả???»

Câu hỏi bất ngờ làm chị khựng lại mấy giây, đỏ mặt... như ăn trộm bị bắt quả tang. Xấu hổ quá, (sao anh ta có thể đọc được ý nghĩ của mình thế nhỉ?), chị vờ có việc, kiếm cớ bỏ đi.

Sinh nhật 17 tuổi của chị, chị mời bạn bè tới nhà chơi, một đám choai choai con nít, nói cười ầm ĩ. Tới tối tiệc tan, lúc về phòng ở lầu hai, chị thấy anh đứng đó, trong bóng tối, chìa ra cho chị một bó hoa hồng rồi anh bỏ đi.

Ôm bó hoa, chị hồi hộp... Về phòng, cả đêm chị cứ ngắm bó hoa, từng cánh nhung mềm mại, đẹp ơi là đẹp, mở ra, trong cánh thiệp mỏng có bức thư ngắn kèm theo:

«Em của tôi.
Lần đầu gặp, em đẹp như một bức tranh.
Lần thứ hai gặp, em tinh quái như một con mèo.
Lần thứ ba gặp, con mèo đánh cắp trái tim tôi...
Bây giờ, tôi bắt đền … em để trái tim tôi ở đâu?
Tôi muốn xin em trả lại…!»

Trời đất! Phải làm sao đây? Đọc xong bức thư, chị tái mặt... lại cả đêm trằn trọc, sáng ra chị không dám ra khỏi phòng, lỡ gặp anh chàng thì biết ăn nói làm sao???

Mối tình của chị bắt đầu như vậy, dễ thương, nhẹ nhàng.

Năm ấy, chị thi tú tài IBM lần đầu ở Qui Nhơn. Tràn đầy tự tin, chị xúc tiến thủ tục đi du học...

Nhưng một sáng mùa hè, năm 75, anh đi SG họp khẩn cấp và không trở về. Toàn bộ nhân viên Ngoại giao được lệnh rút khỏi VN. Anh gọi điện thoại cho Ba chị, xin ông đưa cả gia đình đi, anh sẽ sắp xếp chuyến bay, nhưng ba chị không chịu.

Anh lại xin Ba chị cho cưới chị để đưa chị theo, nhưng ba chị cũng không chịu, đời nào ông để con gái ông lấy Mỹ?

Những chi tiết này chị không hề hay biết, thấp thỏm chờ, và lòng chị có ý trách, sao anh nỡ bỏ đi không một lời từ giã...

Biến cố 75 ập tới. Ba chị đi tù (là nhân viên ngoại giao cao cấp), nhà cửa toàn bộ bị tịch biên hết, giấc mộng du học của chị vỡ tan.

Cả gia đình chị tan tác như chiếc lá rơi rụng cuối mùa, chị buồn đau một thời gian dài...

Rồi chị cũng gượng dậy giúp mẹ bôn ba, buôn bán nuôi đàn em dại. Và chị lấy chồng, hai vợ chồng tương đối hạnh phúc, nhưng lại gặp phải mẹ chồng khắc nghiệt nên làm chị kiệt quệ tinh thần lẫn thể xác. Chị thất vọng về chồng mình, vì thấy anh rất sợ mẹ, không giúp gì được cho chị, dù bụng mang dạ chửa, chị cũng phải quần quật không khác gì con ở, nên với chồng chị có phần oán trách, và tình cảm chị dành cho chồng, do đó phai nhạt ít nhiều.

Đứa con gái ra đời, cũng không cứu vãn được vấn đề. Mẹ chồng lúc nào cũng chì chiết, hà khắc, chị cô đơn trong gia đình chồng, đến nỗi có lần chị xin chồng ly dị, vì thấy mình khổ quá không chịu nổi. Nhưng rồi… chị phát giác mình mang thai đứa con thứ hai.

Đành vậy, có những lúc buồn, chị ôm con mà nhớ quay quắt về anh, với những thương yêu cũ. Sau này chị đã biết rõ câu chuyện do ba chị trước khi đi tù, đã kể lại với giọng ân hận: «Biết vậy Ba gả con cho nó».

Khi chị biết anh đã tìm đủ mọi cách có thể để đưa chị đi nhưng tình trạng hỗn loạn lúc đó, anh không làm sao hơn được, chị tin chắc anh cũng đau lòng như chị, khi phải đành phải xa nhau. Và chị chấp nhận số phận, không còn oán trách anh nữa.

Sau đó không lâu, có một người lạ mặt tới đưa cho má chị ít tiền và địa chỉ và số điện thoại của anh bên Mỹ. Chị cầm đọc, mà hai hàng nước mắt chảy dài, chẳng biết để làm gì, nhưng chị vẫn cất kỹ số điện thoại và địa chỉ của anh, để thỉnh thoảng lấy ra nhìn, mà buồn vời vợi...

Mang thai lần này chị yếu hẳn, thai 7 tháng mà bụng chị nhỏ xíu, chị gầy, khô như que củi, nhìn vô gương chị không nhận ra mình, đứa con gái xinh đẹp, nhí nhảnh, năng động năm xưa đâu rồi nhỉ?

Thình lình, một tối chồng chị về, mẹ con rầm rì to nhỏ, có chuyến đi vượt biên. Mẹ chồng muốn mẹ con chị ở lại, để chồng chị đi một mình. Nhưng anh không chịu, đi thì phải đi cùng. Lần đầu tiên chị thấy anh cương quyết, cuối cùng mẹ chồng nhượng bộ. Vậy là vợ chồng, con cái chị, dắt díu nhau ra khơi.

Tàu gặp bão, giông tố tưởng đã nhấn chìm con tàu mấy lượt, vậy mà trời thương, may sao chiếc tàu rách nát vẫn còn tiếp tục chạy. Nhưng mấy hôm sau nữa thì máy hư, hết nước, hết thức ăn, lênh đênh vô định trên biển...

Môi nứt nẻ, rướm máu, sức tàn lực kiệt. Mấy lần chị hôn mê tưởng chừng không bao giờ tỉnh lại. Trong cơn mộng mị, chị thấy mình về lại ngày mới lớn, vui tươi, nhí nhảnh bên anh, những ngày lãng mạn, tươi đẹp, nhuộm xanh cả bầu trời.

Hình như giấc mơ đã giúp cho chị thêm chút sức lực, và trời thương, đã có lúc chị thấy mình mở mắt, để thấy đứa con gái bé bỏng ngủ vùi trong lòng mình và đứa con trong bụng có lúc quẫy đạp.

Có lẽ nhờ đó, mà ý chí phải sống trong chị trỗi dậy mạnh mẽ, nhưng tới lúc gặp được tàu cứu thì chị một lần nữa chìm sâu vào hôn mê.

Không biết bao lâu, khi chị tỉnh dậy, thấy mình đang nằm trong bệnh xá xa lạ, tâm trí hoang mang, mơ hồ. Chị hỏi đây là đâu. Qua người y tá bản xứ, chị biết đây là một đảo thuộc Mã Lai.

Biết mình đã tới bến tự do, nhưng quá yếu, chị lại hôn mê. Trước khi ngất, không hiểu sao trong tiềm thức, như một lời trăn trối, chị rút cái địa chỉ giấu trong lai áo, đưa cho cô y tá, nhờ đánh giùm điện tín cho người này, nói chị đang ở đây.

Qua hôm sau, trong cơn thập tử nhất sinh, cái thai có triệu chứng sinh non, mà chị lại quá yếu, Bác sĩ đang lo lắng, không biết có cứu nổi cả mẹ lẫn con không? Trong cơn mê, chị nghe tiếng khóc của chồng, và cảm giác hơi ấm bàn tay nhỏ nhắn của đứa con gái bé bỏng vuốt ve trên mặt, chị như được được hồi sinh lần nữa. Bác sĩ quyết định mổ.

Như cơn gió lốc...

Anh của những ngày tháng cũ, vẫn cao gầy, dáng thư sinh, tuy khuôn mặt bơ phờ, mái tóc nâu rối bời, và cặp mắt xanh lơ, giờ đã không còn sáng như hai vì sao nữa, bởi từ lúc nhận được điện tín, liên lạc được với Liên Hiệp Quốc để xác minh, anh đã không hề chợp mắt.
...

Chuyến bay tốc hành đã đưa anh tới đảo nhỏ này, và giờ đây, đứng nhìn chị bé bỏng, hôn mê trên giường bệnh.

Trước khi đi qua đây, trong đầu anh không hề nghĩ tới chị đã có chồng, con, và một đứa nữa sắp chào đời.

Đứng đó nhìn chị, anh đau đớn, xót xa, đầu óc anh tràn đầy xúc động. Anh véo tay mình mấy lần, để biết chắc đây không phải là một giấc mơ.

Khoảnh khắc, đau đớn, ngỡ ngàng rồi cũng qua đi, Anh thảo luận với bác sĩ, nói chuyện với chồng chị, giới thiệu sơ về mình, và anh khẩn cấp liên lạc bệnh viện lớn nhờ giúp đỡ.

Ngay ngày hôm đó chị được trực thăng chuyển về bệnh viện lớn ở thủ đô Kuala Lumpur, với sự chăm sóc đầy đủ nhất. Chị được cứu sống, cả mẹ lẫn con.

Biết chị đã vượt qua cơn nguy hiểm, lòng anh rộn rã. Đứng bên ngoài phòng, nhìn đứa bé gái sinh non, lớn hơn con mèo một chút, ngo ngoe trong lồng kính, cảm giác tràn ngập thương yêu như chính con mình. Anh ngỏ lời với chồng chị, xin làm cha đỡ đầu của đứa bé.

Trước hôm về lại Mỹ, anh và chị lần đầu nói chuyện trực tiếp với nhau ở bệnh viện, khi chị đã tỉnh táo. Bên giường bệnh, nhìn chị, ốm xanh như chiếc lá. Ánh mắt yêu thương, như ngàn lời muốn nói, nhưng anh biết, có rất nhiều điều cần phải giữ lại cho riêng mình.

Chị nhìn anh cảm kích, biết ơn. Những thứ này có nghĩa gì với những điều chị đang chất chứa trong lòng. Nhưng cũng như anh, chị biết mình không thể nói hay biểu lộ ra những gì mình đang nghĩ, tự nhủ lòng… phải quên thôi!

Ánh mắt nhìn nhau thăm thẳm như biển sâu, chị chỉ nói được một câu: «Em xin lỗi».

Có những niềm riêng một đời giấu kín
Như rong rêu chìm đắm trong biển khơi
Có những niềm riêng một đời câm nín
Nên khi xuôi tay còn chút ngậm ngùi…

Trước lúc chia tay, anh trao riêng cho chồng chị một phong bì, bên trong có một xấp tiền mặt. Chồng chị tự ái, không nhận, nhưng anh cứ bắt chồng chị phải nhận, anh nói:

«Cứ coi như tôi cho mượn, sau này anh có thì trả lại tôi...»

Bốn tháng sau, giữa năm 80 gia đình chị chính thức định cư ở San Jose, CA...

Thời gian qua nhanh, hai năm sau đó chị có thêm một thằng cu Tí ra đời. Nhìn ba đứa con ngày mỗi lớn, chị giờ đã bình thản hơn, sóng gió trong lòng đã dịu đi nhiều. Mỗi năm đến ngày lễ lớn hay sinh nhật của từng đứa con chị, anh đều gửi thiệp, gửi quà. Nhưng hai bên không ai nói chuyện trực tiếp, chị thấy vậy cũng tốt, thôi thì cố coi như «... chỉ là giấc mơ qua»!

Hai vợ chồng chị đều đi học lại, có nghề nghiệp ổn định và đời sống kinh tế vững vàng. Món tiền 7 ngàn dollars năm xưa, chồng chị gởi trả lại cho anh sau 3 năm tới Mỹ.

Nợ tiền đã trả được... nhưng nợ tình thì sao?

Có một điều làm chị bứt rứt là anh không lấy vợ, 40 tuổi anh vẫn sống độc thân. Công việc của anh đi nhiều, và anh lấy công việc bận rộn làm vui...

Mẹ anh thỉnh thoảng nói chuyện với chị qua điện thoại. Bà thương chị như con dù chưa bao giờ gặp, tuy nhiên bà biết mặt chị qua tấm ảnh trong phòng anh.

Những gì bà ấy nói thường làm chị buốt nhói trái tim, làm chị cảm động đến khóc được, và qua bà, chị biết được toàn bộ cuộc sống của anh. Hai người đàn bà, cùng nắm giữ trái tim một người đàn ông. Chị gọi bà bằng Mẹ, các con chị gọi bà là bà ngoại.

Một chiều mùa thu, bà gọi cho chị biết anh đang ốm nặng.
Chị muốn đi thăm lắm nhưng vì công việc làm không thể nghỉ, hơn nữa có những lý do tế nhị chị không đi được. Chị chỉ có thể gởi một bình hoa thật đẹp vào bệnh viện cho anh.
Hôm biết anh xuất viện, chị gọi điện thăm nhưng anh còn yếu, chưa nói chuyện được.

Mẹ anh vừa khóc vừa nói vớí chị: «Con biết không? Họ hàng, bạn bè, đồng nghiệp gửi hoa tới bệnh viện rất nhiều nhưng đến lúc xuất viện, ngồi trên xe lăn, còn rất yếu mà nó chỉ ôm khư khư bình hoa của con, đem về nhà, để bên đầu giường».

Chị khóc !

Hai năm sau đang giờ làm việc, mẹ anh gọi báo tin anh hấp hối, cuộc giải phẫu tim không thành công.

Chị bỏ hết công việc lên thăm anh lần cuối, đi cùng chị có con bé giữa, đứa bé năm nào nhờ anh mà được sống sót...

Nhìn anh thoi thóp trên giường bệnh, chị khóc như chưa bao giờ được khóc, lần đầu cũng là lần cuối, chị khóc thương cho tình yêu của anh và của chị. Khóc thương cho người đàn ông đã yêu chị bằng một tình yêu bền bỉ, không bao giờ ngưng nghỉ, chưa hề đòi hỏi ở chị một điều gì.

Trong một lúc hiếm hoi, tỉnh táo, anh bình thản nhìn chị với ánh mắt tràn ngập thương yêu... Anh cười, bảo chị đừng buồn, đời sống có sinh, có tử. Anh cảm ơn thượng đế, đã cho anh gặp và yêu chị. Chị đau đớn nghẹn lời, cũng chỉ nói được một câu: «Em xin lỗi».

Ánh mắt xanh lơ, cái nhìn đằm thắm, anh thu hết tàn lực nói với chị rằng:

«Nếu có kiếp sau, em đừng nói câu xin lỗi».

Đám tang anh vào một ngày đầu mùa đông... buồn. Anh ra đi ở tuổi 46.

Chị trở về cuộc sống thường ngày, thế gian này từ nay thiếu vắng anh nhưng trong lòng chị, anh vẫn có một chỗ đặc biệt dành riêng.

Ba tháng sau đám tang anh, chị nhận được thư mời của luật sư, sẵn dịp chị bay lên thăm mẹ anh, bà đã già đi nhiều sau cái chết của con trai.

Hôm mở di chúc của anh, chị mới biết cả ba đứa con chị đều có phần trong tài sản của anh để lại. Số tiền không nhiều nhưng dư đủ cho cả ba đứa vào học những trường đại học danh tiếng nhất.

Chiều tàn, bên ngôi mộ anh, chị lặng lẽ thầm thì những lời thương yêu mà lúc anh còn sống chị đã không thể nói.

Theo gió chị gửi tới anh, những lời của một tình yêu, mà chị biết kiếp này và… cho tới kiếp sau chị vẫn ao ước được có, cũng như được gặp lại.

Văng vẳng bên tai chị nghe có tiếng anh thì thầm, «Nếu có kiếp sau xin em đừng nói câu xin lỗi»…

(Người viết: Khuyết Danh)

Ảnh minh họa: Tấm ảnh cũ - Kỷ vật quý giá của cựu binh Jim Reischl trong hành trình tìm kiếm bạn gái xa cách 45 năm.