«Lấy nhau chẳng đặng,
thương hoài ngàn năm.»
Lần đầu gặp anh, chị mới 16 tuổi, nhỏ xíu, tóc bó đuôi gà, đôi môi mỏng
lém lỉnh. Hôm ấy, Ba chị đưa về một thanh niên trẻ người Mỹ, giới thiệu người
phụ tá của mình với gia đình, anh đã nhìn chị không chớp mắt. Đến khi chị vênh
mặt hỏi «Tôi có chỗ nào không ổn»,
anh mới ngượng ngùng sực tỉnh, lí nhí… nói câu xin lỗi!
Không biết sao anh bị chị thu hút, đến mất hồn mất vía, còn chị thì tỉnh
rụi, chẳng để ý gì đến anh chàng người Mỹ đồng nghiệp của ba mình. Sau đó anh
hỏi Ba chị thuê hẳn một tầng lầu trên cùng để ở, thì chị và anh gặp nhau mỗi
ngày.
Sống chung nhà, nhưng đường ai nấy đi, đối với chị, anh là bạn của Ba,
người lớn rồi, nên chị không coi anh như bạn bè của mình, nhưng rồi chị cũng
biết anh mới 24 tuổi, đến từ Washington DC, nhiệm sở ở VN này là công việc đầu
tiên của anh sau khi tốt nghiệp đại học. Tuy còn bỡ ngỡ với xã hội VN, nhưng lạ
một điều là anh nói tiếng Việt giọng Bắc rất chuẩn và lưu loát như được đào tạo
qua trường lớp đàng hoàng.
Anh ít nói nghiêm nghị, nhưng mỗi lần gặp chị, anh lúng túng, mặt mày đỏ
gay, làm chị nổi tính nghịch ngợm, muốn trêu anh.
Có lần trong bữa ăn, chị đưa cho anh quả ớt tròn đỏ, rất đẹp, chị bỏ
nguyên trái vô miệng, nói ngon lắm, và đưa cho anh một trái, bảo ăn thử. Anh
tưởng thật, bắt chước chị, bỏ vô miệng nguyên trái, nhai rốt rột, rồi anh sặc,
anh ho, anh khóc, còn chị nhả trái ớt ra, ôm bụng cười ngặt nghẽo. Anh cay quá,
có ý giận, cầm cốc nước bỏ lên lầu một mạch.
Đến tối không thấy anh xuống, thấy cũng tội nghiệp, chị sai thằng em
bưng lên cho anh ly nước đậu nành tạ tội, nhưng thằng em xuống nói anh ấy không
có ở trên lầu, đi đâu rồi?
Chị có ý đợi, muốn thử coi sau khi ăn trái ớt, mặt mũi anh ra sao? Nhưng
mấy ngày liền anh không về, nghe Ba nói với mẹ anh đi công tác.
Cả tuần không gặp, chị thấy thiếu thiếu, chị nghĩ có lẽ tại mình chơi ác
với người ta nên mình thấy có lỗi, áy náy đó thôi.
Tuần sau anh về, bước vô nhà thấy chị, còn tức nên vờ như không thấy,
anh xách vali đi thẳng lên lầu, từ đó anh luôn giữ vẻ mặt lạnh lùng làm chị
thấy... tự ái ghê gớm luôn.
Một hôm chị đang học thi tú tài, ban đêm ở trường thầy Hai Ngô về, từ
đường Nguyễn Huệ đạp xe về tới nhà chị cũng khá xa, vừa tới góc ngã ba hơi tối,
xe chị tự nhiên trở chứng, phải dắt bộ về, đường tối chị thấy sợ ma. Vừa đi vừa
run, vậy mà xui khiến sao gặp anh, đang lái xe đi ngang mặt, tài thật anh nhận
ra chị ngay, và «de» xe ngược lại. Dù
đang giận, nhưng chị cũng để anh giúp, đem xe về nhà. Trên đường về anh không
nói, chị cũng không…(đang hờn mát mà).
Gần tới nhà, anh quay qua nhẹ giọng hỏi chị: «Sao em ghét tôi quá thế?»
Bị hỏi thình lình, chị ấm ớ: «Tôi có ghét anh đâu?».
Anh nhìn vào mắt chị (trời ạ, tối thui, sao mắt anh
ấy sáng thế, xanh biếc như hai vì sao...).
«Thế sao em vẫn
muốn tôi khóc, để em cười?»
Tự nhiên chị thấy lúng túng. May quá tới nhà, chị cảm
ơn, rồi vội vã xuống xe vào nhà, để anh ngẩn ngơ nhìn theo…
Đêm ấy lạ ghê, không ngủ được, chị cứ thấy đôi mắt như hai ánh sao của
anh chập chờn trước mặt, lần đầu tiên chị mất ngủ vì một chàng trai.
Sáng ra, trước khi đi học chị có ý chờ xem có gặp anh không, nhưng không
gặp, đến giờ, chị phải đi học thôi. Chiều về chị cũng không gặp. Ba chị nói,
anh về nước có chuyện gấp.
Mấy ngày anh không có ở nhà, chị như người mất hồn, cứ ra vô, ăn ngủ
không yên. Lạ nhỉ, sao tâm trạng mình bất ổn như vậy?
Đến khi anh về, vừa thấy anh bước vô từ cửa, chị mừng như bắt được vàng,
ánh mắt long lanh, chị cười nói huyên thuyên. Anh bỏ vali xuống, rạng rỡ nhìn
chị, âu yếm lắng nghe và cuối cùng hỏi chị một câu:
«Em nhớ tôi lắm hả???»
Câu hỏi bất ngờ làm chị khựng lại mấy giây, đỏ mặt... như ăn trộm bị bắt
quả tang. Xấu hổ quá, (sao anh ta có thể đọc được ý nghĩ của mình thế nhỉ?),
chị vờ có việc, kiếm cớ bỏ đi.
Sinh nhật 17 tuổi của chị, chị mời bạn bè tới nhà chơi, một đám choai
choai con nít, nói cười ầm ĩ. Tới tối tiệc tan, lúc về phòng ở lầu hai, chị
thấy anh đứng đó, trong bóng tối, chìa ra cho chị một bó hoa hồng rồi anh bỏ
đi.
Ôm bó hoa, chị hồi hộp... Về phòng, cả đêm chị cứ ngắm bó hoa, từng cánh
nhung mềm mại, đẹp ơi là đẹp, mở ra, trong cánh thiệp mỏng có bức thư ngắn kèm
theo:
«Em của tôi.
Lần đầu gặp, em đẹp như một bức
tranh.
Lần thứ hai gặp, em tinh quái như
một con mèo.
Lần thứ ba gặp, con mèo đánh cắp
trái tim tôi...
Bây giờ, tôi bắt đền … em để trái
tim tôi ở đâu?
Tôi muốn xin em trả lại…!»
Trời đất! Phải làm sao đây? Đọc xong bức thư, chị tái mặt... lại cả đêm
trằn trọc, sáng ra chị không dám ra khỏi phòng, lỡ gặp anh chàng thì biết ăn
nói làm sao???
Mối tình của chị bắt đầu như vậy, dễ thương, nhẹ nhàng.
Năm ấy, chị thi tú tài IBM lần đầu ở Qui Nhơn. Tràn đầy tự tin, chị xúc
tiến thủ tục đi du học...
Nhưng một sáng mùa hè, năm 75, anh đi SG họp khẩn cấp và không trở về.
Toàn bộ nhân viên Ngoại giao được lệnh rút khỏi VN. Anh gọi điện thoại cho Ba
chị, xin ông đưa cả gia đình đi, anh sẽ sắp xếp chuyến bay, nhưng ba chị không
chịu.
Anh lại xin Ba chị cho cưới chị để đưa chị theo, nhưng ba chị cũng không
chịu, đời nào ông để con gái ông lấy Mỹ?
Những chi tiết này chị không hề hay biết, thấp thỏm chờ, và lòng chị có
ý trách, sao anh nỡ bỏ đi không một lời từ giã...
Biến cố 75 ập tới. Ba chị đi tù (là nhân viên ngoại giao cao cấp), nhà
cửa toàn bộ bị tịch biên hết, giấc mộng du học của chị vỡ tan.
Cả gia đình chị tan tác như chiếc lá rơi rụng cuối mùa, chị buồn đau một
thời gian dài...
Rồi chị cũng gượng dậy giúp mẹ bôn ba, buôn bán nuôi đàn em dại. Và chị
lấy chồng, hai vợ chồng tương đối hạnh phúc, nhưng lại gặp phải mẹ chồng khắc
nghiệt nên làm chị kiệt quệ tinh thần lẫn thể xác. Chị thất vọng về chồng mình,
vì thấy anh rất sợ mẹ, không giúp gì được cho chị, dù bụng mang dạ chửa, chị
cũng phải quần quật không khác gì con ở, nên với chồng chị có phần oán trách,
và tình cảm chị dành cho chồng, do đó phai nhạt ít nhiều.
Đứa con gái ra đời, cũng không cứu vãn được vấn đề. Mẹ chồng lúc nào
cũng chì chiết, hà khắc, chị cô đơn trong gia đình chồng, đến nỗi có lần chị
xin chồng ly dị, vì thấy mình khổ quá không chịu nổi. Nhưng rồi… chị phát giác
mình mang thai đứa con thứ hai.
Đành vậy, có những lúc buồn, chị ôm con mà nhớ quay quắt về anh, với
những thương yêu cũ. Sau này chị đã biết rõ câu chuyện do ba chị trước khi đi
tù, đã kể lại với giọng ân hận: «Biết vậy
Ba gả con cho nó».
Khi chị biết anh đã tìm đủ mọi cách có thể để đưa chị đi nhưng tình
trạng hỗn loạn lúc đó, anh không làm sao hơn được, chị tin chắc anh cũng đau
lòng như chị, khi phải đành phải xa nhau. Và chị chấp nhận số phận, không còn
oán trách anh nữa.
Sau đó không lâu, có một người lạ mặt tới đưa cho má chị ít tiền và địa
chỉ và số điện thoại của anh bên Mỹ. Chị cầm đọc, mà hai hàng nước mắt chảy
dài, chẳng biết để làm gì, nhưng chị vẫn cất kỹ số điện thoại và địa chỉ của
anh, để thỉnh thoảng lấy ra nhìn, mà buồn vời vợi...
Mang thai lần này chị yếu hẳn, thai 7 tháng mà bụng chị nhỏ xíu, chị
gầy, khô như que củi, nhìn vô gương chị không nhận ra mình, đứa con gái xinh
đẹp, nhí nhảnh, năng động năm xưa đâu rồi nhỉ?
Thình lình, một tối chồng chị về, mẹ con rầm rì to nhỏ, có chuyến đi
vượt biên. Mẹ chồng muốn mẹ con chị ở lại, để chồng chị đi một mình. Nhưng anh
không chịu, đi thì phải đi cùng. Lần đầu tiên chị thấy anh cương quyết, cuối
cùng mẹ chồng nhượng bộ. Vậy là vợ chồng, con cái chị, dắt díu nhau ra khơi.
Tàu gặp bão, giông tố tưởng đã nhấn chìm con tàu mấy lượt, vậy mà trời
thương, may sao chiếc tàu rách nát vẫn còn tiếp tục chạy. Nhưng mấy hôm sau nữa
thì máy hư, hết nước, hết thức ăn, lênh đênh vô định trên biển...
Môi nứt nẻ, rướm máu, sức tàn lực kiệt. Mấy lần chị hôn mê tưởng chừng
không bao giờ tỉnh lại. Trong cơn mộng mị, chị thấy mình về lại ngày mới lớn,
vui tươi, nhí nhảnh bên anh, những ngày lãng mạn, tươi đẹp, nhuộm xanh cả bầu
trời.
Hình như giấc mơ đã giúp cho chị thêm chút sức lực, và trời thương, đã
có lúc chị thấy mình mở mắt, để thấy đứa con gái bé bỏng ngủ vùi trong lòng
mình và đứa con trong bụng có lúc quẫy đạp.
Có lẽ nhờ đó, mà ý chí phải sống trong chị trỗi dậy mạnh mẽ, nhưng tới
lúc gặp được tàu cứu thì chị một lần nữa chìm sâu vào hôn mê.
Không biết bao lâu, khi chị tỉnh dậy, thấy mình đang nằm trong bệnh xá
xa lạ, tâm trí hoang mang, mơ hồ. Chị hỏi đây là đâu. Qua người y tá bản xứ,
chị biết đây là một đảo thuộc Mã Lai.
Biết mình đã tới bến tự do, nhưng quá yếu, chị lại hôn mê. Trước khi
ngất, không hiểu sao trong tiềm thức, như một lời trăn trối, chị rút cái địa
chỉ giấu trong lai áo, đưa cho cô y tá, nhờ đánh giùm điện tín cho người này,
nói chị đang ở đây.
Qua hôm sau, trong cơn thập tử nhất sinh, cái thai có triệu chứng sinh
non, mà chị lại quá yếu, Bác sĩ đang lo lắng, không biết có cứu nổi cả mẹ lẫn
con không? Trong cơn mê, chị nghe tiếng khóc của chồng, và cảm giác hơi ấm bàn
tay nhỏ nhắn của đứa con gái bé bỏng vuốt ve trên mặt, chị như được được hồi
sinh lần nữa. Bác sĩ quyết định mổ.
Như cơn gió lốc...
Anh của những ngày tháng cũ, vẫn cao gầy, dáng thư sinh, tuy khuôn mặt
bơ phờ, mái tóc nâu rối bời, và cặp mắt xanh lơ, giờ đã không còn sáng như hai
vì sao nữa, bởi từ lúc nhận được điện tín, liên lạc được với Liên Hiệp Quốc để
xác minh, anh đã không hề chợp mắt.
...
Chuyến bay tốc hành đã đưa anh tới đảo nhỏ này, và giờ đây, đứng nhìn
chị bé bỏng, hôn mê trên giường bệnh.
Trước khi đi qua đây, trong đầu anh không hề nghĩ tới chị đã có chồng,
con, và một đứa nữa sắp chào đời.
Đứng đó nhìn chị, anh đau đớn, xót xa, đầu óc anh tràn đầy xúc động. Anh
véo tay mình mấy lần, để biết chắc đây không phải là một giấc mơ.
Khoảnh khắc, đau đớn, ngỡ ngàng rồi cũng qua đi, Anh thảo luận với bác
sĩ, nói chuyện với chồng chị, giới thiệu sơ về mình, và anh khẩn cấp liên lạc
bệnh viện lớn nhờ giúp đỡ.
Ngay ngày hôm đó chị được trực thăng chuyển về bệnh viện lớn ở thủ đô
Kuala Lumpur, với sự chăm sóc đầy đủ nhất. Chị được cứu sống, cả mẹ lẫn con.
Biết chị đã vượt qua cơn nguy hiểm, lòng anh rộn rã. Đứng bên ngoài
phòng, nhìn đứa bé gái sinh non, lớn hơn con mèo một chút, ngo ngoe trong lồng
kính, cảm giác tràn ngập thương yêu như chính con mình. Anh ngỏ lời với chồng
chị, xin làm cha đỡ đầu của đứa bé.
Trước hôm về lại Mỹ, anh và chị lần đầu nói chuyện trực tiếp với nhau ở
bệnh viện, khi chị đã tỉnh táo. Bên giường bệnh, nhìn chị, ốm xanh như chiếc
lá. Ánh mắt yêu thương, như ngàn lời muốn nói, nhưng anh biết, có rất nhiều điều
cần phải giữ lại cho riêng mình.
Chị nhìn anh cảm kích, biết ơn. Những thứ này có nghĩa gì với những điều
chị đang chất chứa trong lòng. Nhưng cũng như anh, chị biết mình không thể nói
hay biểu lộ ra những gì mình đang nghĩ, tự nhủ lòng… phải quên thôi!
Ánh mắt nhìn nhau thăm thẳm như biển sâu, chị chỉ nói được một câu: «Em xin lỗi».
Có những
niềm riêng một đời giấu kín
Như rong
rêu chìm đắm trong biển khơi
Có những
niềm riêng một đời câm nín
Nên khi
xuôi tay còn chút ngậm ngùi…
Trước lúc chia tay, anh trao riêng cho chồng chị một phong bì, bên trong
có một xấp tiền mặt. Chồng chị tự ái, không nhận, nhưng anh cứ bắt chồng chị
phải nhận, anh nói:
«Cứ coi như tôi cho mượn, sau này
anh có thì trả lại tôi...»
Bốn tháng sau, giữa năm 80 gia đình chị chính thức định cư ở San Jose,
CA...
Thời gian qua nhanh, hai năm sau đó chị có thêm một thằng cu Tí ra đời.
Nhìn ba đứa con ngày mỗi lớn, chị giờ đã bình thản hơn, sóng gió trong lòng đã
dịu đi nhiều. Mỗi năm đến ngày lễ lớn hay sinh nhật của từng đứa con chị, anh
đều gửi thiệp, gửi quà. Nhưng hai bên không ai nói chuyện trực tiếp, chị thấy
vậy cũng tốt, thôi thì cố coi như «...
chỉ là giấc mơ qua»!
Hai vợ chồng chị đều đi học lại, có nghề nghiệp ổn định và đời sống kinh
tế vững vàng. Món tiền 7 ngàn dollars năm xưa, chồng chị gởi trả lại cho anh
sau 3 năm tới Mỹ.
Nợ tiền đã trả được... nhưng nợ tình thì sao?
Có một điều làm chị bứt rứt là anh không lấy vợ, 40 tuổi anh vẫn sống
độc thân. Công việc của anh đi nhiều, và anh lấy công việc bận rộn làm vui...
Mẹ anh thỉnh thoảng nói chuyện với chị qua điện thoại. Bà thương chị như
con dù chưa bao giờ gặp, tuy nhiên bà biết mặt chị qua tấm ảnh trong phòng anh.
Những gì bà ấy nói thường làm chị buốt nhói trái tim, làm chị cảm động
đến khóc được, và qua bà, chị biết được toàn bộ cuộc sống của anh. Hai người
đàn bà, cùng nắm giữ trái tim một người đàn ông. Chị gọi bà bằng Mẹ, các con
chị gọi bà là bà ngoại.
Một chiều mùa thu, bà gọi cho chị biết anh đang ốm nặng.
Chị muốn đi thăm lắm nhưng vì công việc làm không thể nghỉ, hơn nữa có
những lý do tế nhị chị không đi được. Chị chỉ có thể gởi một bình hoa thật đẹp
vào bệnh viện cho anh.
Hôm biết anh xuất viện, chị gọi điện thăm nhưng anh còn yếu, chưa nói
chuyện được.
Mẹ anh vừa khóc vừa nói vớí chị: «Con
biết không? Họ hàng, bạn bè, đồng nghiệp gửi hoa tới bệnh viện rất nhiều nhưng
đến lúc xuất viện, ngồi trên xe lăn, còn rất yếu mà nó chỉ ôm khư khư bình hoa
của con, đem về nhà, để bên đầu giường».
Chị khóc !
Hai năm sau đang giờ làm việc, mẹ anh gọi báo tin anh hấp hối, cuộc giải
phẫu tim không thành công.
Chị bỏ hết công việc lên thăm anh lần cuối, đi cùng chị có con bé giữa,
đứa bé năm nào nhờ anh mà được sống sót...
Nhìn anh thoi thóp trên giường bệnh, chị khóc như chưa bao giờ được
khóc, lần đầu cũng là lần cuối, chị khóc thương cho tình yêu của anh và của
chị. Khóc thương cho người đàn ông đã yêu chị bằng một tình yêu bền bỉ, không
bao giờ ngưng nghỉ, chưa hề đòi hỏi ở chị một điều gì.
Trong một lúc hiếm hoi, tỉnh táo, anh bình thản nhìn chị với ánh mắt
tràn ngập thương yêu... Anh cười, bảo chị đừng buồn, đời sống có sinh, có tử.
Anh cảm ơn thượng đế, đã cho anh gặp và yêu chị. Chị đau đớn nghẹn lời, cũng
chỉ nói được một câu: «Em xin lỗi».
Ánh mắt xanh lơ, cái nhìn đằm thắm, anh thu hết tàn lực nói với chị
rằng:
«Nếu có kiếp sau, em đừng nói câu
xin lỗi».
Đám tang anh vào một ngày đầu mùa đông... buồn. Anh ra đi ở tuổi 46.
Chị trở về cuộc sống thường ngày, thế gian này từ nay thiếu vắng anh
nhưng trong lòng chị, anh vẫn có một chỗ đặc biệt dành riêng.
Ba tháng sau đám tang anh, chị nhận được thư mời của luật sư, sẵn dịp
chị bay lên thăm mẹ anh, bà đã già đi nhiều sau cái chết của con trai.
Hôm mở di chúc của anh, chị mới biết cả ba đứa con chị đều có phần trong
tài sản của anh để lại. Số tiền không nhiều nhưng dư đủ cho cả ba đứa vào học
những trường đại học danh tiếng nhất.
Chiều tàn, bên ngôi mộ anh, chị lặng lẽ thầm thì những lời thương yêu mà
lúc anh còn sống chị đã không thể nói.
Theo gió chị gửi tới anh, những lời của một tình yêu, mà chị biết kiếp
này và… cho tới kiếp sau chị vẫn ao ước được có, cũng như được gặp lại.
Văng vẳng bên tai chị nghe có tiếng anh thì thầm, «Nếu có kiếp sau xin em đừng nói câu xin lỗi»…
(Người viết: Khuyết Danh)
Ảnh minh họa: Tấm ảnh cũ - Kỷ vật quý giá của cựu binh Jim Reischl trong
hành trình tìm kiếm bạn gái xa cách 45 năm.