Sau
đây là tài liệu được trích lại từ cuốn La Revue Spirite:
Bác
sĩ Henri Desrives là một khoa học gia hoạt động, vui
vẻ và yêu nghề. Như mọi nhà trí thức khác, ông sống
một cuộc đời rất thực tế và không buồn lưu ý đến những
điều mà khoa học chưa giải thích được. Ông không tin rằng có một linh hồn
tồn tại sau khi chết vì thể xác chỉ là sự kết hợp của các vật chất hữu cơ
và trí thông minh chẳng qua chỉ là sản phẩm của các tế bào thần kinh. Khi
thể xác đã hư hoại thì trí thông minh cũng không thể tồn tại. Một hôm khi
bàn chuyện với các con về đề tài đời sống sau khi chết, ông hứa sẽ liên
lạc với các con nếu quả thật có một đời sống bên kia cửa tử.
Cậu
con trai Piere Desrives, cũng là một y sĩ, đã nói: “Nếu đã chết, làm sao
cha có thể liên lạc với con được?”
Bác
sĩ Henri suy nghĩ một lúc rồi trả lời: “Cha không tin có một đời sống hay
cõi giới nào ngoài đời sống này nhưng nếu sau khi chết mà cha thấy được
điều gì thì cha sẽ tìm đủ mọi cách để liên lạc với các con.”
Vài
năm sau, bác sĩ Desrives từ trần, các con ông vì bận việc nên cũng không
để ý gì đến buổi bàn luận đó nữa.
Khoảng
hai năm sau, một nhóm nhân viên làm việc trong bệnh viện lập bàn cầu
cơ chơi, bất ngờ cơ bút đã viết: “Xin cho gọi bác
sĩ Piere Desrives đến vì tôi là cha cậu đó và tôi có mấy lời muốn
nhắn nhủ với các con tôi.”
Được
thông báo, bác sĩ Piere không tin tưởng mấy nhưng nhớ lại lời dặn của
cha, ông bèn gọi các em đến tham dự buổi cầu cơ này. Một người cầm giữ
đầu một sợi dây, đầu kia cột vào một cây bút chì và chỉ một lát sau cây
bút đã tự động chạy trên các trang giấy thành bức thư như sau:
Các con thân mến,
Cha rất hài lòng đã gặp đủ mặt các con nơi đây. Gần một năm
nay, cha có ý trông đợi để kể cho các con về những
điều ở cõi bên này mà cha đã chứng kiến nhưng không có cơ hội
nói lại cho các con biết.
Như các con đã biết, hôm đó sau khi ở bệnh viện về,
cha thấy trong người mệt mỏi lạ thường, cha bèn lên giường nằm
và dần dần lịm đi luôn, không hay biết gì nữa. Một lúc sau
cha thấy mình đang lơ lửng trong một bầu ánh sáng trong suốt như
thủy tinh. Thật khó có thể tả rõ cảm tưởng của cha khi đó, nhưng không
hiểu sao cha thấy trong mình dễ chịu, linh hoạt, thoải mái chứ không bị
gò bó, ràng buộc như trước. Các con biết cha bị phong thấp nên đi đứng
khó khăn, vậy mà lúc đó cha thấy mình có thể đi đứng, bay nhảy như hồi trai tráng. Cha có thể
giơ tay giơ chân một cách thoải mái, không đau đớn gì. Đang vẫy vùng
trong biển ánh sáng đó thì bất chợt cha nhìn thấy cái thân thể của cha
đang nằm bất động trên giường. Cha thấy rõ mẹ và các con đang quây quần
chung quanh đó và phía trên thân thể của cha có một hình thể lờ mờ trông
như một lùm mây màu xám đang lơ lửng. Cả gia đình đều đang xúc động và
không hiểu sao cha cứ thấy trong mình buồn bực, khó chịu. Cha lên tiếng
gọi nhưng không ai trả lời, cha bước đến nắm lấy tay mẹ con nhưng mẹ con
không hề hay biết và tự nhiên cha ý thức rằng mình đã chết. Cha bị xúc
động mạnh, nhưng may thay lúc đó
mẹ con và các con đều lên tiếng cầu nguyện, tự nhiên cha thấy mình bình
tĩnh hẳn lại như được an ủi. Cái
cảm giác được đắm chìm trong những lời cầu nguyện này thật vô cùng thoải
mái dễ chịu không thể tả xiết. Lớp ánh sáng bao quanh cha tự nhiên trở
nên sáng chói và cả một cuộc đời của cha từ lúc thơ ấu đến khi trưởng
thành bỗng hiện ra rõ rệt như trên màn ảnh. Từ việc gần đến việc xa, ngay
cả những chi tiết nhỏ nhặt nhất cũng đều hiện ra rõ rệt trong tâm trí của
cha. Hơn bao giờ hết, cha ý thức tường tận các hành vi của mình, các điều
tốt lành, hữu ích mà cha đã làm cũng như các điều xấu xa, vô ích mà cha
không tránh được. Tự nhiên cha
thấy sung sướng về những điều thiện đã làm và hối tiếc về những điều mà
đáng lẽ ra cha không nên làm. Cả
một cuốn phim đời hiện ra một cách rõ rệt cho đến khi cha thấy mệt mỏi và
thiếp đi như người buồn ngủ.
Cha ở trong tình trạng vật vờ, nửa ngủ nửa thức này một lúc khá lâu
cho đến khi tỉnh dậy thì thấy mình vẫn lơ lửng trong một bầu ánh sáng có
màu sắc rất lạ không giống như màu ánh sáng lần trước. Cha thấy mình có
thể di chuyển một cách nhanh chóng, có lẽ vì không còn xác thân nữa. Cha
thấy cũng có những người đang di chuyển gần đó nhưng mỗi lần muốn đến gần
họ thì cha lại có cảm giác khó chịu làm sao. Một lúc sau cha đi đến một
nơi có đông người tụ họp. Những người này có rung động dễ chịu nên cha có
thể bước lại hỏi thăm họ một cách dễ dàng. Một người cho biết tùy theo
các rung động thích hợp mà cha có thể tiếp xúc được với những người ở cõi bên này. Sở
dĩ cha không thể tiếp xúc với một số người vì họ có sự rung động khác với
“tần số rung động” (frequency) của cha. Sự giải thích có tính cách khoa
học này làm cha tạm hài lòng. Người nọ cho biết thêm rằng ở cõi bên này
tần số rung động rất quan trọng, và tùy theo nó mà người ta sẽ lựa chọn
nơi chốn mà họ sống. Cũng như loài cá ở ngoài biển, có loài sống gần mặt
nước, có loài sống ở lưng chừng và có loài sống dưới đáy sâu tùy theo sức
ép của nước thì ở cõi bên này, tùy theo tần số rung động mà người ta có
thể tìm đến được các cảnh giới khác nhau. Sự kiện này làm cha cảm thấy vô
cùng thích thú vì như vậy quả có một cõi giới bên kia cửa tử và cõi này
lại có nhiều cảnh giới khác nhau nữa.
Khi xưa cha không tin những quan niệm như thiên đàng hay
địa ngục nhưng hiện nay cha thấy quan niệm này có thể được giải
thích một cách khoa học qua việc các tần số rung động. Những tần số
rung động này như thế nào? Tại sao cha lại có những tần số rung động hợp
với một số người? Người nọ giải thích rằng tùy theo tình cảm của con
người mà họ có những sự rung động khác nhau; người có tình thương cao cả
khác với những người tính tình nhỏ mọn, ích kỷ hay những người hung ác,
không hề biết thương yêu. Đây là một điều lạ lùng mà trước nay cha không
hề nghĩ đến. Cha bèn đặt câu hỏi về khả năng trí thức, phải chăng những
khoa học gia như cha có những tần số rung động đặc biệt nào đó, thì người
nọ trả lời rằng, khả năng trí thức hoàn toàn không có một giá trị nào ở
cõi bên này cả. Điều này làm cho cha ít nhiều thất vọng. Người nọ cho
biết rằng cái kiến thức chuyên môn mà cha tưởng là to tát chẳng qua chỉ
là những mảnh vụn của một kho tàng kiến thức rất lớn mà bên này ai cũng
có thể học hỏi được.
Người nọ nhấn mạnh rằng, điều quan trọng là con người biết làm
gì với những kiến thức đó. Sử dụng nó để phục
vụ hay tiêu diệt nhân loại? Sử dụng nó vào mục đích
vị tha hay ích kỷ? Sử dụng nó để đem lại niềm vui hay
để gây đau khổ cho người khác? Thấy cha có vẻ thất vọng, người này bèn
đưa cha đến một thư viện lớn, tại đây có lưu trữ hàng triệu cuốn sách mà cha có thể
tham cứu, học hỏi. Chưa bao giờ cha lại xúc động như vậy. Có những cuốn
sách rất cổ viết từ những thời đại xưa và có những cuốn sách ghi nhận
những điều mà từ trước tới nay cha chưa hề nghe nói đến. Sau một thời
gian nghiên cứu, cha thấy cái kiến thức mà mình vẫn hãnh diện thật ra
chẳng đáng kể gì so với kho tàng kiến thức nơi đây. Đến khi đó cha mới
thấm thía điều người kia nói về khả năng trí thức của con người và bắt
đầu ý thức về tần số rung động của mình.
Nơi cha đang sống có rất đông người, đa số vẫn giữ
nguyên tính nết cũ như khi còn sống ở thế gian. Có người
hiền từ vui vẻ, có người tinh nghịch ưa chọc phá người khác, có người
điềm đạm, có kẻ lại nóng nảy. Quang cảnh nơi đây không khác cõi trần bao
nhiêu; cũng có những dinh thự đồ sộ, to lớn; có những vườn hoa mỹ lệ với
đủ các loại hoa nhiều màu sắc; có những ngọn núi rất cao hay sông hồ rất
rộng. Lúc đầu cha ngạc nhiên khi thấy những cảnh vật này dường như luôn
luôn thay đổi, nhưng về sau cha mới biết cảnh đó hiện hữu là do sức mạnh
tư tưởng của những người sống tại đây. Điều này có thể giải thích giống
như sự tưởng tượng ở cõi trần. Các con có thể tưởng tượng ra nhà cửa dinh
thự trong đầu óc mình, nhưng ở cõi trần sức mạnh này rất yếu, chỉ hiện
lên trong trí óc một lúc mà thôi. Bên này vì có những rung động đặc biệt
nào đó phù hợp với sự rung động của tư tưởng làm gia tăng thêm sức mạnh
khiến cho những hình ảnh này có thể được thực hiện một cách rõ ràng,
chính xác và lâu bền hơn.
Các con đừng nghĩ rằng những người bên này chỉ suốt ngày
rong chơi, tạo ra các hình ảnh theo ý muốn của họ; mà thật ra
tất cả đều bận rộn theo đuổi các công việc riêng để chuẩn bị cho sự tái
sinh. Vì mọi tư tưởng bên này đều tạo ra các hình ảnh nên đây là môi
trường rất thích hợp để người ta có thể kiểm soát, ý thức rõ rệt hơn về
tư tưởng của mình. Vì đời sống bên này không cần ăn uống, làm lụng nên
người ta có nhiều thời giờ theo đuổi những công việc hay sở thích riêng. Có
người mở trường dạy học, có kẻ theo đuổi các nghành chuyên môn như hội họa, âm nhạc, kiến trúc,
văn chương thơ phú, v.v...
Tóm lại, đây là môi trường để họ học hỏi, trau dồi các khả năng
để chuẩn bị cho một đời sống mai sau. Phần cha đang học hỏi trong một
phòng thí nghiệm khoa học để sau này có thể giúp ích cho nhân loại. Càng
học hỏi, cha càng thấy cái kiến thức khi xưa của cha không có gì đáng kể
và nền y khoa mà hiện nay các con đang theo đuổi thật ra không lấy gì làm
tân tiến lắm nếu không nói rằng rất ấu trĩ so với điều cha được biết nơi
đây. Hiển nhiên khoa học phát triển tùy theo khả năng trí thức của con
người, mỗi thời đại lại có những sự phát triển hay tiến bộ khác nhau nên những
giá trị cũng vì thế mà thay đổi. Có những giá trị mà thời trước là khuôn
vàng thước ngọc thì đời sau lại bị coi là cổ hủ, lỗi thời; và như cha
được biết thì những điều mà ngày nay đang được người đời coi trọng, ít
lâu nữa cũng sẽ bị đào thải. Tuy nhiên cái tình thương, cái ý tưởng phụng sự mọi người, mọi
sinh vật thì bất kỳ thời đại nào cũng không hề thay đổi, và đó mới là căn
bản quan trọng mà con người cần phải biết. Càng học hỏi cha càng thấy chỉ có những gì có thể tồn
tại được với thời gian mà không thay đổi thì mới đáng được gọi là chân
lý. Cha mong các con hãy suy ngẫm
về vấn đề này, xem đâu là những giá trị có tính cách trường tồn, bất biến
để sống theo đó, thay vì theo đuổi nhũng giá trị chỉ có tính cách tạm bợ,
hời hợt.
Cha biết rằng mọi ý nghĩ, tư tưởng, hành động đều
có những rung động riêng và được lưu trữ lại trong ta
như một cuốn sổ. Dĩ nhiên khi sống ở cõi trần, con người
quá bận rộn với sinh kế, những ưu phiền của kiếp nhân sinh, không
ý thức gì đến nó nên nó khép kín lại; nhưng khi bước qua cõi
bên này thì nó từ từ mở ra như những trang giấy phô bày rõ rệt trước mắt.
Nhờ vậy mà cha biết rõ rằng hạnh phúc hay khổ đau cũng đều do chính ta
tạo ra và lưu trữ trong mình. Cuốn sổ lưu trữ này là bằng chứng cụ thể
của những đời sống đã qua và chính nó kiểm soát tần số rung động của mỗi
cá nhân. Tùy theo sự rung động mà mỗi cá nhân thích hợp với những cảnh giới riêng và sẽ sống
tại đó khi bước qua cõi giới bên này. Do đó, muốn được thoải mái ở cõi
bên này, các con phải biết chuẩn bị. Cha mong các con hãy bắt tay vào
việc này ngay. Các con hãy rán làm những việc lành, từ bỏ những hành vi
bất thiện. Khi làm bất cứ việc gì, các con hãy suy gẫm xem hậu quả việc
đó như thế nào, liệu nó có gây đau khổ hay tổn thương cho ai không? Đừng quá bận rộn suy tính những điều hơn lẽ thiệt mà
hãy tập quên mình. Đời người rất ngắn, các con không có nhiều thời giờ
đâu.
Khi còn sống, đã có lúc cha dạy các con phải biết đầu tư
thương mại để dành tiền bạc vào những trương mục tiết kiệm, những
bất động sản, những chứng khoán... nhưng bây giờ cha biết rằng mình đã
lầm. Một khi qua đến bên đây, các con không thể mang những thứ đó theo
được. Danh vọng, địa vị, tài sản vật chất chỉ là những thứ có tính cách
tạm bợ, bèo bọt, đến hay đi như mây trôi, gió thổi, trước có sau không. Chỉ có tình thương mới là hành trang
duy nhất mà các con có thể mang theo mình qua cõi giới bên này một cách
thoải mái, không sợ hư hao mất mát. Tình
thương giống như đá nam châm, nó thu hút những người thương nhau thực sự,
để họ tiến lại gần nhau, kế hợp với nhau. Nó là một mãnh lực bất diệt,
mạnh mẽ, trường tồn và chính nhờ lòng thương này mà người ta có thể tìm
gặp lại nhau trải qua không gian hay thời gian. Chắc hẳn các con nghĩ rằng người cha nghiêm nghị đầy
uy quyền khi trước đã trở nên mềm yếu chăng? Này các con, chỉ khi nào
buông xuôi tay bước qua thế giới bên này, các con mới thực sự trải nghiệm
được trạng huống của mình, tốt hay xấu, hạnh phúc hay đau khổ, thích hợp
với cảnh giới thanh cao tốt lành hay những nơi chốn thấp thỏi xấu xa. Hơn
bao giờ hết, cha xác định rằng điều cha học hỏi nơi đây là một định luật
khoa học thật đơn giản mà cũng thật huyền diệu. Nó chính là cái nguyên lý
trật tự và điều hòa hằng hiện hữu trong vũ trụ. Sự lựa chọn để sống trong
cảnh giới mỹ lệ đẹp đẽ hay tăm tối u minh đều do những tần số rung động
của mình mà ra cả và chính mình
phải chịu trách nhiệm về cuộc đời của mình hay lựa chọn những nơi mà mình
sẽ đến.
Khi còn sống
cha tin rằng chết là hết, con người chỉ là sự cấu tạo của
các chất hữu cơ hợp lại, nhưng hiện nay cha biết mình đã lầm. Cha không
biết phân biệt phần xác thân và phần tâm linh. Sự chết chỉ đến với phần
thân xác trong khi phần tâm linh vẫn hoạt động không ngừng. Nó đã hoạt
động như thế từ thuở nào rồi và sẽ còn tiếp tục mãi mãi. Hiển nhiên cá
nhân của cha không phải là cái thể xác đã bị hủy hoại kia mà là phần tâm
linh vẫn tiếp tục hoạt động này, do đó cha mới cố gắng liên lạc với các
con để hoàn tất điều mà cha đã hứa với các con khi xưa. Cha nghiệm được
rằng sự sống giống như một dòng nước tuôn chảy không ngừng từ nơi này qua
nơi khác, từ hình thức này qua hình thức khác. Khi trôi chảy qua những
môi trường khác nhau nó sẽ bị ảnh hưởng những điều kiện khác nhau; và tùy
theo sự học hỏi, kinh nghiệm mà nó ý thức được bản chất thiêng liêng thực
sực của nó. Cũng như sóng biển có đợt cao, đợt thấp thì đời người cũng có
những lúc thăng trầm, khi vinh quang tột đỉnh, lúc khốn cùng tủi nhục,
nhưng nếu biết nhìn lại toàn vẹn tiến trình của sự sống thì kiếp người có
khác chi những làn sóng nhấp nhô, lăng xăng trên mặt biển đâu. Chỉ khi
nào biết nhận thức về bản chất thật sự của mình vốn là nước chứ không
phải là sóng thì các con sẽ ý thức được tính cách trường cửu của sự sống.
Từ đó các con sẽ có một quan niệm rõ rệt rằng chết chỉ là một diễn tiến
tất nhiên, một sự kiện cần thiết có tính cách giai đoạn chứ không phải
một cái gì ghê gớm như người ta thường sợ hãi. Điều cần thiết
không phải là trốn tránh sự chết hay ghê tởm nó, nhưng là sự chuẩn bị cho
một sự kiện tất nhiên phải đến một cách thoải mái, ung dung vì nếu khi
còn sống các con đã đem hết khả năng và phương tiện của mình để giúp đời,
để yêu thương mọi loài thì lúc lâm chung, các con chẳng có gì phải luyến
tiếc hay hổ thẹn với lương tâm cả. Trước khi từ biệt các con, cha
muốn nói thêm rằng hiện nay cha đang sống một cách thoải mái, vui vẻ và
an lạc chứ không hề khổ sở.
Nguyên Phong dịch |