Chuyến
đi Thụy Sĩ (để được chết) của David Goodall
Posted by GLN
Một buổi chiều Thứ Tư tháng 5, 2018, trong khu
vực “Xuất Hành” của phi trường quốc tế thành phố
Ông lão đó là Tiến sĩ David Goodall, 104 tuổi.
Và hôm nay là ngày ông lên đường đi đến một nơi để ông được chết.
David Goodall ngoài việc là một nhà sinh vật học
nổi tiếng, một thi sĩ, một kịch sĩ nghiệp dư còn là một người cha,
ông nội và ông cố của một gia đình lớn đầy con cháu sống rải rác ở
mấy quốc gia khác nhau.
Cuộc đời ông lúc nào cũng đầy những sinh hoạt
sôi động. Sau khi lấy bằng Tiến sĩ vào đầu thập niên 1940, ông làm
việc tại các đại học ở nhiều quốc gia kể cả Anh, Hoa Kỳ và Úc. Ông
lập gia đình 3 lần. Khi đến tuổi về hưu vào năm 1979, ông tiếp tục
làm việc và trong vài thập niên gần đây nhất đã biên soạn một tài
liệu dài 30 tập về các hệ thống môi sinh trên thế giới. Năm 2016, ông
nhận được huân chương cao quý nhất về những thành tựu và đóng góp
khoa học của ông cho nước Úc: Order of Australia Medal.
Ông chơi tennis cho đến 90 tuổi khi mà ông không
còn đủ sức chơi nữa. Ông tham gia một hội kịch nghệ nghiệp dư trong
thành phố cho đến khi ông không còn có thể lái xe ban đêm đến tập
dượt kịch được nữa.
Ông sống tự lập một mình trong căn phố một
phòng ngủ của ông, tiếp tục đi làm việc ở trường đại học Edith Cowan
University bằng phương tiện chuyên chở công cộng cho đến lúc 102 tuổi
khi trường đại học yêu cầu ông chỉ được làm việc ở nhà vì họ e
ngại cho sự an toàn của ông trong khi di chuyển. Ông phản đối và trường
đại học đã phải tìm cho ông một văn phòng gần nhà ông hơn để ông đến
đó làm. Lúc đó, ông là khoa học gia lớn tuổi nhất vẫn còn làm việc
của nước Úc.
Tuy nhiên, sức khỏe ông ngày càng suy giảm thêm.
Ông đi đứng càng lúc càng khó khăn và thị lực của ông không còn cho
phép ông đọc email trên màn ảnh computer nữa. Ông bắt buộc phải nghỉ
làm.
Vào đầu năm, ông bị té trong nhà. Tuy không bị
thương tích gì đáng kể nhưng ông không tìm được chỗ vịn nào để có
thể gượng đứng dậy được. Ông nằm trên sàn nhà 2 ngày ròng rã cho tới
khi người giúp việc đến nhà tìm thấy và chở ông đến bệnh viện. Ông kể
lại “Chỉ có hai vết thương xoàng và vài vết bầm nhỏ. Nói chung là
không có gì để lo lắng cả.” Tuy nhiên bác sĩ cũng đã cấm ông không
được dùng phương tiện di chuyển công cộng và không được băng qua đường
một mình nữa.
Không còn đi làm được nữa, và hầu như tất cả
những bạn bè của ông đã qua đời, ông cảm thấy ông không còn phục vụ
gì cho xã hội được nữa. Cộng thêm vào việc sức khỏe suy sụp hẳn,
ông không thấy có gì vui thích để sống nữa. Đó là lúc ông bắt đầu
suy nghĩ và toan tính đến việc chấm dứt cuộc đời mình.
Con gái của ông là Karen Goodal-Smith kể lại ông
thường nói về dự định sẽ tự kết thúc sinh mạng mình nếu điều kiện
sức khỏe và phẩm chất đời sống không còn đáng để tiếp tục nữa. Và
ông đã có lần cố thực hành việc tự sát, tuy nhiên không thành công.
Đó là điều ông sợ nhất: cố gắng tự sát nữa
nhưng vẫn không thành công mà chỉ biến ra tàn phế và tình cảnh bắt
buộc ông phải vào viện dưỡng lão. Ông kể rằng “Tôi rất lo lắng mỗi
khi nghĩ đến việc không còn tự chăm sóc được cho chính mình nữa.”
Tuy nhiên, cũng giống như từ xưa đến giờ, một
khi muốn làm điều gì là ông nhất quyết sẽ phải làm cho được. Vì
luật pháp nước Úc không cho phép việc trợ tử, tức là không ai được
phép giúp ông tự sát, ông liên lạc với hội Exit International (“Lối
Thoát Quốc Tế”), một tổ chức quốc tế mà ông đã là hội viên trong 20
năm nay, nhờ giúp đỡ giấy tờ cho ông nhanh chóng sang Thụy Sĩ để kết
thúc cuộc sống nay không còn đáng sống nữa của mình.
Lối Thoát là một tổ chức quốc tế phi lợi
nhuận ủng hộ việc hợp thức hóa an tử và trợ tử. Lối Thoát được
Bác sĩ Phillip Nitschke sáng lập vào năm 1997 sau khi đạo luật cho phép
an tử ở Úc (ban hành năm 1996 và là đạo luật an tử đầu tiên trên thế
giới) bị hủy bỏ. Trên mặt pháp lý, Lối Thoát là một công ty đăng bộ
ở Úc nhưng hoạt động toàn cầu với hơn 20 ngàn thành viên có số tuổi
trung bình là 75 tuổi.
Bác sĩ Nitschke cho biết Tiến sĩ Goodall là
trường hợp đầu tiên của một dạng an tử mà xưa nay người ta chưa từng
gặp. Đó là vì ông Goodall tuy già và yếu nhưng ông nói chung vẫn còn
khỏe khoắn, không có bệnh nan y hay không bị đau đớn gì cả. Bác sĩ
Nitschke nói tiếp, “Đây là tình cảnh của một công dân Úc nổi tiếng,
tự trọng và hãnh diện với những thành đạt của mình. Thế mà bây
giờ ông bị luật pháp kiềm chế những gì ông được phép và không được
phép làm trong khi ông chỉ giản dị muốn được sử dụng quyền căn bản
của cá nhân để kết thúc mạng sống của chính mình. Tình cảnh nầy đã
bắt buộc ông phải đi ra nước ngoài để được chết, vì đây là một điều
ông thực sự mong muốn và tin tưởng…”
Khi người ta hỏi sinh nhật 104 của Tiến sĩ
Goodall có vui không thì ông trả lời ngắn gọn: “Không, tôi không vui. Tôi
chỉ muốn được chết.” Và ông nói thêm “Tôi rất vui sướng với cuộc
sống của tôi cho đến khoảng 90 tuổi. Về sau nầy, sức khỏe tôi không
còn nữa, tôi ăn không còn ngon và đi đứng không được dễ dàng nữa. Đời
sống trở thành quá khó khăn và tôi không còn làm được những gì tôi
muốn làm nữa. Vì vậy tôi chấm dứt cuộc sống như vậy. Điều nầy không
có gì đáng buồn cả. Có đáng buồn chăng là ở chỗ tôi không được
phép thực hiện việc tôi rất muốn nầy trong đất nước của tôi.”
Tiến sĩ David Goodall luôn luôn giữ một tinh
thần bình thản và vững chắc về quyết định của ông. Gia đình ông tuy
thông hiểu và hết lòng ủng hộ tư tưởng nầy nhưng họ vẫn không khỏi
bị chấn động lớn khi lần đầu tiên nghe về quyết định của ông.
Các người con, và các cháu nội ngoại của ông,
cho biết họ đang trải qua một giai đoạn đầy những xúc cảm mãnh liệt.
Một mặt họ nhận biết quyết định nầy thể hiện con người với cá tính
cương quyết, nhân cách độc lập của ông. Mặt khác, càng gần ngày ông
ra đi thì họ càng cảm thấy khó bình thản để chào tiễn biệt ông lần
cuối cùng. Con gái ông, bà Karen nói “Cha tôi đã được toại nguyện trong cuộc sống, chúng tôi đã có một
thời gian dài bên nhau đầy yêu thương. Việc ông ra đi bây giờ là vì ông
tự trọng và muốn bảo toàn nhân phẩm của ông ấy. Đây là một quyết
định tuyệt đẹp nhưng không phải ai cũng tiếp nhận dễ dàng … “
Bà nói tiếp, “Những khi tôi nhớ rằng đây là
lựa chọn của Cha tôi và là điều mà ông ao ước thì việc chia tay có
cảm thấy đỡ khó khăn hơn một chút. Chúng tôi có được những ngày giờ
cuối cùng như thế nầy với ông là một điều rất may mắn. Và chúng tôi
cảm thấy rất có phước khi Cha tôi có thể thực hiện được việc nầy
đúng như ý muốn của ông. Và sự kiện ông thực hiện việc nầy một
cách công khai như thế nầy sẽ đóng góp rất nhiều vào cuộc tranh luận
đang diễn ra hiện tại về vấn đề an tử.”
Trước chuyến đi của ông, Tiến sĩ Goodall tổ
chức gặp gỡ tất cả những thân quyến và thân hữu để chào chia tay
lần cuối cùng. Ông rất bình thản khi trò chuyện với họ về chuyến đi
sắp đến của ông.Trong buổi họp mặt với hội thi sĩ Well Versed mà ông
đã từng tham gia thường xuyên, ông ngâm tặng mọi người một bài thơ ông
tâm đắc mang tựa đề Tarantella của Hilaire Belloc.
… Never more;
Miranda, never more.
Only the high peaks hoar:
And
No sound
In the walls of the halls where falls
The tread
Of the feet of the dead to the ground
No sound:
Only the boom
Of the far waterfall like doom.”
… Thôi đã hết;
Miranda, thôi đã hết
Có còn chăng chỉ những đỉnh tuyết sương trắng
phết
Và ngoài cửa cuồn cuộn dòng
Không một âm thanh
Giữa những bức tường các đại sảnh
Nơi bước chân
Của người chết dẫm trên đất nền
Không một âm thanh
Trừ tiếng vang rền
Của con thác từ xa như ngày khánh tận. (NNT
dịch)
Trên đường bay sang Thụy Sĩ, ông ghé ngang thành
phố
Trời ở đó đang mùa xuân và những khu vườn nho
trên đồi đang nẩy chồi lá xanh tươi.
Ba người cháu nội của ông Goodall cùng tháp
tùng trong chuyến đi cuối cùng của ông. Một người cháu, tên Daniel
Goodall 30 tuổi, vừa phụ nấu một buổi cơm thôn quê thịnh soạn cho ông
nội mình vừa giải thích, “Tuy mới đầu tin này khiến tôi bị chấn động
mạnh, nhưng sau khi có thời gian suy nghĩ thêm, tôi lại thấy vui mừng cho
ông. Tuy phần tôi vẫn không khỏi đau buồn, nhưng tôi vui mừng cho phần
ông tôi.” And nói thêm, “Đó chắc sẽ là một trải nghiệm rất lạ lùng,
khi có một buổi hẹn với thần chết.”
Nơi “hẹn với thần chết” của Tiến sĩ Goodall
là Basel, một thành phố có từ thời Trung Cổ nằm trên bờ sông Rhine ở
miền tây bắc Thụy Sĩ, gần biên giới với Pháp và Đức. Giữa những khu
phố cổ của thành phố Basel là tòa thị sảnh xây bằng đá trầm thạch
đỏ từ thế kỷ 16. Trong nhà thờ chính toà của thành phố nầy có ngôi
mộ của học giả Đức Erasmus.
1677331943697blob.jpg
Khi ông đến Thụy Sĩ, nhiều phóng viên khắp thế
giới đã tụ họp tại khách sạn nơi ông ở để tường thuật về diễn
tiến chuyến đi của ông. Trong buổi chiều trước khi ông chết, hội Lối
Thoát Quốc Tế tổ chức một buổi họp báo, và mọi người đến đông
nghẹt.
Ông giải thích với họ rằng ông không có gì để
sợ hãi, đau buồn hay hối tiếc cả; ông rất vui khi mọi việc đã được
thu xếp để kết thúc như vầy. Tuy ông ao ước phải chi ông không cần phải
đến tận Thụy Sĩ để thực hiện ý nguyện của mình, và phải chi ông
được chết tại quê hương nước Úc bên cạnh những người thân của mình,
ông vẫn hài lòng vì sắp được từ bỏ cõi đời nầy. Ông ngỏ lời cám ơn
tất cả mọi người đã đến nghe ông trò chuyện, và hy vọng cuộc đời
của ông đã có ích lợi trong khía cạnh nào đó cho họ, ít nhất là
trong giai đoạn cuối cùng nầy.
Tiến sĩ Goodall phải đi đến Thụy Sĩ vì luật
an tử của quốc gia nầy có phần dễ dãi hơn nhiều nơi khác. Luật hình
sự Thụy Sĩ cho phép việc trợ giúp người khác tự kết liễu mạng
sống của họ miễn là người trợ giúp không làm điều nầy vì tư lợi.
Và Thụy Sĩ cũng không giới hạn luật nầy cho công dân của họ mà thôi.
Có nghĩa là người ngoại quốc có thể đến Thụy Sĩ để xin được trợ
tử.
Hàng năm có khoảng 200 du khách ngoại quốc mua
vé phi cơ một chiều đến Thụy Sĩ vì lý do nầy. Điều đó dẫn đến một
hiện tượng được những người chống đối luật an tử gọi là “du lịch
tự sát”.
Nhiều người dân Thụy Sĩ không đồng ý với luật
lệ an tử trong nước họ. Thí dụ như bà Annemarie Pfeifer, một chuyên gia
tâm thần học và cũng là dân biểu hội đồng thành phố Basel, nghĩ
rằng luật an tử làm Thụy Sĩ mang tiếng xấu. Bà lo ngại luật nầy sẽ
ảnh hưởng đến danh tiếng của quốc gia đã sáng lập ra hội Hồng Thập
Tự, một tổ chức quốc tế biểu tượng sự cứu giúp mạng sống con
người.
Ở ngay tại Úc cũng vậy, chính Hội Đồng Y Khoa
Úc (Australian Medical Association) đã lên tiếng quan ngại về tiền lệ
mà Tiến sĩ Goodall đang mang đến. Chủ Tịch Hội Đồng nầy, Bác sĩ
Michael Gannon cho rằng luật cho phép an tử và trợ tử là những đạo
luật “nguy hiểm”.
Ông Gannon lo ngại, “Khi những người già đến bao
nhiêu tuổi thì xã hội chúng ta không còn đón mừng việc họ sống lâu
nữa?” Ông than phiền, “Những người như Tiến sĩ Goodall quyết định tự
sát chỉ vì họ cho rằng không còn gì đáng để sống nữa. Tôi nghĩ đó
là một lằn ranh rất nguy hiểm. Tôi rất lo lắng xã hội chúng ta sẽ đi
đến những luật lệ tuỳ tiện quyết định ai đáng để tiếp tục sống và
ai không còn đáng sống nữa.”
Theo ông Gannon, “Xã hội chúng ta cần và nên
chăm sóc những người đang khốn đốn vì già yếu và phụ giúp làm cho
đời sống của họ đáng sống. Chúng ta cần phải có những hệ thống và
phương tiện chăm lo cho các bệnh nhân cận tử một cách tốt đẹp hơn.”
Vài ngày trước đó, Tiến sĩ Goodall đã gặp hai
bác sĩ Thụy Sĩ để xác nhận ý muốn chấm dứt mạng sống của ông và
chứng minh trí óc ông vẫn còn minh mẫn khi đi đến quyết định trên. Đây
là hai điều kiện bắt buộc theo luật an tử Thụy Sĩ.
Trong buổi phỏng vấn với các ký giả, nhân dịp
được hỏi ông định nghe bản nhạc gì trong lúc qua đời, ông lập tức
hát cho mọi người trong phòng nghe một đoạn Symphony Số 9, bài Ode to
Joy của Beethoven mà ông yêu thích. Khi ông chấm dứt, tiếng vỗ tay của
mọi người kéo dài mãi không muốn dứt như để cảm nhận màn trình
diễn cuối cùng của một khoa học gia tài ba vốn cũng là một kịch
sĩ, ca sĩ và thi sĩ nghiệp dư đầy nhiệt huyết.
Buổi sáng hôm ông Goodall dự định sẽ chết,
trời mưa nhè nhẹ và dai dẳng. Ông thức dậy sớm. Con gái ông, bà Karen
gọi điện thoại từ thành phố Perth ở Úc để thăm hỏi ông lần chót.
Và đây cũng là lần đầu tiên trong đời, người cha lúc nào cũng cứng
rắn, kỷ luật của bà nói với bà rằng ông rất yêu thương bà. “Biết
rằng cha tôi sẽ chết ngày hôm nay và tôi sẽ không bao giờ được trò
chuyện với ông nữa, nghe ông thốt ra lời nầy là một điều rất lớn lao
đối với tôi”, bà thổ lộ.
Khi người ta đẩy ông trên chiếc xe lăn vào trụ
sở y tế Life Circle của thành phố Basel, trong căn phòng mà ông sẽ
chết, nhiều phóng viên nhà báo đã chờ đợi sẵn. Ông và 3 người cháu
nội ngoại của ông ngồi xuống một chiếc bàn tròn nhỏ để ký những
văn kiện sau cùng bằng 3 ngôn ngữ khác nhau. Bao quanh họ ngổn ngang
những máy quay phim, máy ảnh và đèn rọi sáng choang.
Vẻ mặt ba người cháu đều bơ phờ và thất
thần. Riêng ông vẫn sắc bén và thản nhiên. Khi đọc một văn kiện có
đề cập đến “bệnh trạng” của ông, ông khẽ cằn nhằn, “Tôi đâu có bệnh
gì đâu, tôi chỉ muốn chết mà thôi.”
Sau khi phần thủ tục giấy tờ đã xong, tất cả
phóng viên và dụng cụ phải rời khỏi phòng. Những người còn lại chuẩn bị
những thứ cần thiết. Vào khoảng 12 giờ 30 trưa thứ năm ngày 10 tháng
5, 2018, ông Goodall nằm xuống chiếc giường dành riêng cho ông và làm
những động tác cuối cùng trong cuộc sống của ông.
1677331978360blob.jpg
Bác sĩ đã cắm sẵn một mũi kim tiêm vào gân
cánh tay ông, mũi kim nầy nối liền với lọ độc dược treo gần đó. Theo
luật an tử của Thụy Sĩ, ông phải tự mình bật mở một bộ phận nhỏ
bằng nhựa để làm cho liều độc dược chảy qua mũi kim tiêm vào người
ông. Không ai khác được phép trợ giúp ông làm việc nầy.
Liều độc dược được dùng ở đây là một loại
barbiturate mang nhãn hiệu Nembutal. Barbiturate là một hóa chất tác động
lên hệ thống thần kinh trung tâm, nếu dùng đúng phân lượng, sẽ gây mê
thiếp và kế đó là chết.
Ở tuổi 104, mắt ông rất mờ và những ngón tay
ông rất vụng về. Ông lọng cọng khá lâu nhưng vẫn không bật được chiếc
nút mở vừa nhỏ vừa cứng. Nếu ông không tự làm được việc đó thì
chuyến đi Thụy Sĩ nầy của ông sẽ thất bại và ông sẽ phải mang theo
ước nguyện không thành của mình quay trở về Úc. Mọi người trong
phòng, kể cả mấy người cháu của ông, đã được căn dặn kỹ là họ
không được đụng đến dụng cụ nào hay nói lời gì để chỉ dẫn cho ông.
Tuy nhiên họ được quyền đổi một bộ phận mở
khác cho ông. Sau khi họ làm điều đó, ông cố gắng một lần nữa, và
ông có thể bật mở chiếc nút một cách khá dễ dàng.
“Ông nằm ngửa ra, nhắm mắt lại bình thản chờ
đợi”, một người cháu trai của ông có mặt trong phòng kể lại.
Tuy nhiên, ảnh hưởng của thuốc xảy ra chậm hơn
ông tưởng. Khoảng 30 giây đồng hồ sau, ông mở mắt ra nhìn quanh và
buột miệng “Ồ, chậm đến thế à?”
Đó là lời nói sau cùng của ông. Một khoảng
thời gian ngắn sau, ông ngừng thở.