Thượng
Đế nhiệm mầu! Phép nhiệm mầu có thật
http://nhinrabonphuong.blogspot.com/2022/09/phep-nhiem-mau-co-that-nang-ntmn.html
(Chuyện khó tin nhưng có thật)
Tôi sinh ra không biết cha mẹ mình là ai. Từ bé tí,
tôi đã ở cùng với mõ già trong một ngôi chùa ở làng. Mọi người vẫn quen gọi nơi
đây là chùa làng, nhưng nó bé lắm, do làng xây dựng từ thời xa xưa để cho bà
con dân làng thờ Phật. Phía ngoài chùa có một am nhỏ mõ nói là thờ Thành Hoàng
làng, và một cái chái phía bên cạnh am để cho mõ già và tôi ở.
Chùa làng không có sư, chỉ có mõ già được làng cắt cử
ra trông coi chùa. Có việc lễ cúng gì thì người làng gọi mõ, sai mõ sửa soạn để
các cụ trong làng ra cúng. Mõ không phải làm nghề đi thông báo công việc của
làng xã, nhưng không hiểu sao người làng lại gọi là mõ.
Mõ già kể mõ nhặt được tôi trước cổng chùa. Người mẹ
nào đó nhẫn tâm bỏ tôi lại trước cửa chùa không một mảnh vải che thân, dây rốn
còn dài lòng thòng chưa kịp cắt. Thân thể mình mẩy tôi dính đầy máu, gọi kiến đen
kiến đỏ kéo nhau đến bu kín. Lúc ấy là canh ba, tôi khóc như xé vải, mõ già
nghễnh ngãng, tai đực tai lành, chẳng nghe thấy tiếng trẻ con khóc trước cửa
chùa đâu.
Mõ nói, như có trời xui đất khiến, đêm ấy mõ không
ngủ được nên lần ra cửa chùa. Nhìn thấy một bọc máu đỏ hỏn, ngo ngoe dưới chân,
kiến bu đen bu đỏ, mõ giật mình. Bế tôi lên, mõ xót xa chửi rủa quân vô lương,
phường chó sói, hổ dữ còn không ăn thịt con thế mà có đứa nó dám đẻ con rồi vứt
cho kiến ăn.
Tôi thành con của mõ già, sống cùng mõ trong ngôi
chùa làng. Mõ dạy tôi trồng lúa, trồng rau, nuôi gà để lấy cái ăn. Ngày rằm
mồng một, trong làng có ai cúng nải chuối, đĩa xôi thì hôm đó hai mõ con có chút
thức ăn tươi tỉnh.
Tôi lớn lên tự biết thân phận bất hạnh của mình, một
mắt tôi bị mù do kiến đục sâu vào thủy tinh thể hồi lọt lòng. Tôi lại bị khèo
một tay nên mõ thương tôi lắm. Mõ già chăm bẵm tôi, mỗi lần tắm cho tôi, mõ lại
than thở, chắc khi đẻ ra nó biết mày mù mắt khoèo tay nên nó sợ nuôi mày sẽ vất
vả, cho mày làm người lớn lên sẽ tủi nhục con ạ, nên con mẹ mày mới ngậm đắng
nuốt cay bỏ mày đi để hóa kiếp cho mày. Ai ngờ số mày không làm ma được mà phải
làm người con ạ. Thôi gắng sống cho nên người. Con người ta có số cả, ông trời
không lấy của ai hết tất cả đâu mà lo!
Đó là câu cửa miệng mõ già luôn nói với tôi: «Ông trời không lấy của ai hết tất cả mọi thứ
đâu con» để động viên tôi ráng vượt lên hoàn cảnh.
Tôi dứt khoát không đi học, vì mặc cảm thân phận. Mõ
thương tôi, không nỡ ép. Mõ già dạy tôi biết tính nhẩm cộng trừ con số đủ để đi
chợ bán rau không bị nhầm tiền. Mõ dạy tôi biết đọc và biết mỗi việc ký tên tôi
nếu phải dùng đến chữ ký trong trường hợp nào đó mà không phải điểm chỉ như
những người mù chữ thực sự. Mõ nói, mõ chỉ có thể dạy tôi được đến thế, và đó cũng
là tất cả những vốn liếng văn hóa mà mõ có được thời bình dân học vụ. Mõ trút
lại hết cho đứa bé côi cút tội nghiệp là tôi.
Mõ già lắm rồi, đau yếu quanh năm nên mọi việc trông
nom trong chùa và công việc đồng áng một mình tôi gánh vác. Mõ không có chồng,
không có con. Mãi sau này, khi giờ phút lâm chung, mõ mới nói cho tôi biết
rằng, mõ có chồng nhưng hai người cưới nhau chưa kịp có con, chồng mõ đi bộ đội
rồi hy sinh ở chiến trường. Mõ ngã quỵ vì buồn đau, ốm một trận thập tử nhất
sinh. Nhà chồng đưa mõ ra ngôi chùa làng để sư thầy trông coi chùa có nghề
thuốc nam, thuốc thang cứu mõ.
Khỏi bệnh, mõ xin phép nhà chồng và nhà mẹ đẻ được ở
lại chùa hầu hạ công việc tâm linh cho sư thầy. Vậy là mõ rời nhà đến chùa làng
ở, coi như xuống tóc đi tu. Thật ra mõ chỉ nhận mình là mõ, chưa bao giờ mõ
nhận mình là sư, vì mõ biết con đường tu tập phải học nhiều mà mõ thì chẳng có
kiến thức. Mõ chỉ ở đây giúp đỡ sư thầy thôi. Nhưng từ khi có mõ ở chùa làng, sư
thầy ra đi vì đã có mõ để gửi gắm công việc ở làng.
Nghe nói sư thầy ra tỉnh để nhận trụ trì ở một ngôi
chùa to hơn. Từ đó đến nay, chùa làng không có sư, chỉ có mõ sống thui thủi một
mình ở chùa cho đến ngày nhặt được tôi.
Mõ chỉ lên bát hương đặt sau bàn thờ Thành Hoàng làng
và nói với tôi, hăm hai tháng chạp là ngày giỗ của chồng mõ, sau này mõ khuất
núi, con nhớ thắp hương cho linh hồn ông ấy khỏi tủi phận.
Mỗi lần mõ ốm là tôi lại khóc vì sợ mõ chết, bỏ tôi
lại một mình. Mõ thương tôi, nước mắt đục rỉ ra từ hai khóe mắt nhăn nheo. Mõ
thều thào: «Ông trời không lấy đi của ai
tất cả. Con cố gắng sống và kiếm đứa con mà nuôi. Người như con lấy chồng chắc
là khó, không ai người ta thương mình tàn tật đâu con. Kiếm lấy mụn con, sau
này nương tựa lúc tuổi già».
Mõ ốm nằm liệt giường 2 năm rồi mới mất. Có lẽ mõ thương
tôi, đi không dứt nên cứ leo lắt sống để mỗi ngày lại bày dạy cho tôi thêm một
việc quan trọng ở đời mà lúc sinh thời có thể mõ đã dại dột mà đánh mất. Cứ mỗi
lần mõ định đi, mõ lại kêu tôi đến bên giường, thều thào cái điệp khúc ông trời
không lấy đi của ai tất cả, cố gắng kiếm lấy đứa con để nương tựa, đừng sống
một mình thui thủi như mõ…
Nhưng không ai cưỡng được sinh lão bệnh tử. Cuối cùng
mõ cũng rời bỏ ngôi chùa làng và tôi để trở về cõi âm trong một ngày mùa đông
hửng nắng. Tôi buồn đau đến nỗi không thể gắng gượng được để lo tang ma cho mõ.
Hội người cao tuổi trong xã lo đưa mõ ra đồng an nghỉ ngàn thu.
Cuộc sống trong ngôi chùa hẻo lánh những ngày không
có mõ buồn hiu hắt. Năm đó tôi bước sang tuổi 18. Một mình trong ngôi chùa làng
tôi vào ra thơ thẩn vì nhớ mõ. Tôi khóc nhiều lắm, khóc vì mất một người thân
duy nhất để nương tựa trên đời. Mõ vừa là mẹ, vừa là cha, chăm sóc tôi từ khi
tôi đỏ hỏn. Thế nên mất mõ, tôi thấm thía thế nào là mồ côi, là cô độc.
Năm đó, có thể là phép nhiệm màu đầu tiên của đời tôi
đã xảy ra. Tôi vẫn chua chát nghĩ vậy mỗi lần nhớ đến sự kiện đó. Sau này càng
ngẫm, tôi càng tin rằng mõ đã xui khiến cho tôi có sự gặp gỡ như vậy. Linh hồn
mõ đã không bỏ rơi đứa con côi cút của mõ nhặt về. Sau này, trong tận cùng của
cơn bĩ cực, tôi vẫn không một lần nào oán hận người đàn ông đã cho tôi một đứa
con, dù đứa con đó đau ốm và bệnh tật từ trong trứng nước.
Tôi không một lần oán hận số phận, dù cuộc sống của
tôi toàn những bất hạnh và buồn đau. Tôi tin lời mõ và luôn tâm niệm một điều,
ông trời sẽ không lấy đi của ai tất cả.
Những ngày tháng sau cái chết của mõ, tôi rất buồn.
Trong làng, các bậc cao niên sau cái chết của mõ già cũng đã họp và bàn bạc cử
người ra trông chùa. Không thể để cho một đứa con hoang, lại là con gái, tàn
tật như tôi không rõ gốc gác ở đâu, do mõ già nhặt về, giờ lại thay mõ coi sóc
chùa làng được. Sớm muộn gì thì tôi cũng phải ra đi. Nếu tôi có ở lại thì cũng
phải có người chính để coi chùa làng, tôi mới chỉ là một đứa con gái 18 tuổi,
không thể đảm đương công việc soạn sửa ở chùa của làng. Nếu có thì tôi chỉ là
làm những việc phụ giúp ở chùa làng thôi chứ không thể đứng ra thay mõ được. Điều
đó khiến tôi càng buồn bã, mất phương hướng hơn.
Trong làng có một ông giáo già đã về hưu thường hay
ra lễ chùa và cứ ngày rằm mồng một lại viết chữ nho cho dân làng ra xin sớ về
dâng lễ ở gia tiên. Ông giáo dạy tôi chữ quốc ngữ để cho tôi biết đọc biết
viết. Và điều gì đến đã đến. Tôi chưa kịp nghĩ đến việc sẽ xin ai đó một đứa
con bầu bạn sớm hôm lúc tuổi già thì tôi đã bị chính ông giáo già cưỡng hiếp.
Tôi cam phận và nhớ lời mõ dặn, thôi thì đây cũng là cơ hội cho tôi kiếm đứa
con mà không phải mất công mất sức đi xin ở đâu xa, mà xin chắc gì thân phận tàn
tật như tôi người ta đã cho.
Sau mấy lần cưỡng hiếp tôi, ông giáo già nói với tôi:
«Ông được người làng cử ra trông chùa
làng thay mõ. Ông thương mày côi cút, cho mày đứa con để bầu bạn lúc tuổi già.
Mày có chửa thì đừng ở lại đây nữa mang tiếng cho cả ông và mày. Ông già rồi,
có gia đình, con cháu đã phương trưởng ông không thể cưu mang mày được. Mày còn
trẻ, ông cho mày ít tiền, ông dạy mày biết đọc biết viết rồi, mày ráng lên
thành phố mà tìm cơ hội để làm việc sinh con làm lại cuộc sống, đừng có ở đây,
mà chết già. Mày đi đi, đừng bao giờ trở về làng nữa mà tủi nhục con ạ». Đau
đớn và tủi nhục, tôi khăn gói quần áo và cầm ít tiền ông giáo chuẩn bị cho rồi
ra đi.
Chưa một lần được hưởng lạc thú giữa đàn ông và đàn
bà, hay được hưởng niềm hạnh phúc bình thường của một người con gái, một người đàn
bà có một người đàn ông chăn gối cho đúng nghĩa, tôi đã mang thai và có con
trong hoàn cảnh trớ trêu và bi kịch như vậy. Cắn răng lên thành phố, tôi xin
việc ở một gánh chè trong ngõ. Ngày đi làm, tối về ngủ ở gầm cầu xó chợ. Khi
cái bụng chửa đã vượt mặt, tôi đến cửa chùa xin được nương tựa để sinh con.
Nhưng chưa thấy ông trời thương tình ở đâu, chỉ thấy
ông trời luôn tàn nhẫn với tôi, một số phận quá bất hạnh. Tôi sinh con trong
thiếu thốn, bản thân thiếu hiểu biết, thiếu kỹ năng nên tôi đã không biết để
tiêm phòng cho con. Con gái tôi lên 5 tuổi bị ốm một trận, hai chân teo tóp lại
không đứng vững được nữa. Tôi đưa con đi khám mới biết con bị bại liệt do sơ
sinh không được chủng ngừa đầy đủ. Nước mắt tuôn rơi, tôi ôm con mà chỉ muốn được
đi ra cây cầu, đứng trên đó mà gieo mình xuống lòng sông để dòng nước cuốn mẹ
con tôi trôi đi mãi, để tôi không phải sống kiếp người đau khổ…
Mình tôi tàn tật, tứ cố vô thân đã là cực khổ, tủi
phận; đằng này, làm mẹ đơn thân, rồi lại sinh ra đứa con nhưng do thiếu hiểu
biết, tôi đã vô tình làm hại con, tước đi cuộc sống bình thường lành lặn của
con gái tôi, đó là một tội lỗi mà tôi không thể tha thứ cho bản thân được.
Khi bác sĩ giải thích căn bệnh bại liệt của con vô phương
cứu chữa, và khả năng con phải đối diện với việc không còn đi lại được nữa, cả
cuộc đời sẽ gắn liền với chiếc xe lăn mà tôi gần như ngất đi. Tôi ôm con trên
tay, nước mắt tuôn rơi lã chã. Tôi không biết kêu ai, không biết than thở cùng
ai. Tôi hận cuộc đời, hận chính bản thân mình, và tôi rơi vào tận cùng của
tuyệt vọng. Tôi ôm con từ bệnh viện trở về nhà trọ đi như trôi trong vô định,
mấy lần đứng sững trước làn đường ôtô đang chạy. Tôi chỉ muốn được chết.
Từ đó trở đi, tôi thường xuyên nghĩ đến cái chết. Tôi
muốn kết thúc hết những đau khổ hiện tại để giải thoát cho cả hai mẹ con. Tôi
không thể gắng gượng để sống tiếp. Tôi không dám nhìn vào đôi chân bại liệt của
con, càng không dám hình dung con tôi sẽ lớn lên như thế nào trên chiếc xe lăn.
Tôi khèo tay, đã đủ khổ, giờ con tôi hai chân không đi lại được, nó sẽ khổ cực
gấp trăm lần tôi. Sau này tôi già đi, không đi làm được nữa, ai sẽ chăm sóc cho
con tôi, ai sẽ nuôi nấng nó, ai sẽ bao bọc cho cuộc đời nó.
Chỉ nghĩ đến đấy thôi, nước mắt tôi đã lại tuôn rơi.
Tôi không muốn tiếp tục với bể khổ trên vai. Tôi muốn tìm cách để kết thúc. Tôi
sám hối trước con, bao nhiêu lần tôi ý định tự tử cùng với con nhưng mỗi lần bế
con lên, nhìn gương mặt như thiên thần của con gái, nụ cười rạng rỡ của con,
tôi không cầm lòng nổi. Không ít lần tôi ôm con gái tôi đi lên trên những chiếc
cầu vắt qua sông Hàn với ý định sẽ nhảy xuống dòng sông chảy xiết để kết thúc
những đau khổ ân hận. Nỗi ân hận giày vò tôi, hành hạ tôi, vì tôi mà con gái
tôi tật nguyền, rằng tôi đã hại đời con gái mình một cách ngu xuẩn.
Chính sự thiếu hiểu biết của tôi mà con gái tôi mất đi
sự cử động phát triển bình thường của một đôi chân. Càng nghĩ đến điều đó, tôi
càng đau đớn, càng cảm thấy tội lỗi với con. Càng ân hận, lại càng nghĩ quẩn,
vì thế tôi chỉ muốn được chết để giải thoát tất cả. Nhưng không biết có phải
ông trời đã không lấy đi của ai tất cả như lời mõ già nói năm xưa không mà mỗi
lần ôm con gái lên với ý định gieo mình xuống sông thì con gái tôi lại ngước
ánh mắt trong veo ngây thơ nhìn tôi và nhoẻn miệng cười.
Con bập bẹ gọi mẹ, dụi mái đầu tóc tơ vào ngực tôi
lần tìm bầu sữa mẹ. Con gái tôi gọi Mẹ! Mẹ! âu yếm như trong con chưa từng trải
qua những cơn đau thể xác ở đôi chân. Con gái tôi vẫn lớn lên, với một sức sống
mãnh liệt vô cùng. Con không đi được thì con bò, con lết chân rất nhanh và lúc
nào cũng nhoẻn miệng cười với mẹ. Con gái tôi đã níu tôi lại với cuộc đời, ràng
buộc tôi vào sự sống mãnh liệt của nó. Và tôi đã thua cuộc. Con gái tôi dù bị
tật nguyền hai chân, con không chạy nhảy được, không chơi được cùng với các bạn
cùng trang lứa nhưng con luôn tỏ ra là đứa bé lạc quan yêu đời.
Từ bé con đã như biết thân biết phận mình nên rất ít
khi con quấy khóc. Con là đứa trẻ vui vẻ, thông minh và đáng yêu. Con cười suốt
và luôn mang lại niềm vui cho tôi. Tôi cắn răng nuôi con lớn lên chấp nhận hoàn
cảnh. Tôi mang con vào xin tá túc ở chùa. Ngày ngày tôi đi phụ bán chè, tối về
lại vào chùa chăm con tìm chốn trú chân mưa nắng.
Con gái tôi thích đi học. Tôi không thể tước đoạt
niềm khát khao của con. Hằng ngày tôi cõng con đến trường và chiều lại đến cõng
con về. Suốt 5 năm cấp 1, dù mưa hay nắng, tôi đều dành thời gian để đưa con đến
lớp mà không bỏ buổi nào trừ những hôm không may con bị ốm.
Lúc đầu tôi chỉ nghĩ cho con học đủ để biết đọc biết
viết là được, rồi cho con ở nhà chăm sóc nuôi nấng giúp đỡ con, hai mẹ con nương
tựa vào nhau mở gánh chè để sống. Nhưng con gái tôi rất thông minh, học giỏi
xuất sắc, các thầy cô giáo rất yêu quý cháu và gần như miễn giảm hết các khoản
nộp ở trường lớp để động viên con tiếp tục tới trường.
Nguyện vọng của con gái tôi là được tiếp tục học lên
nữa nên tôi đã không thể tước bỏ ước mơ của con. Tôi đã tước bỏ đôi chân của
con, làm cho con chịu đời sống tật nguyền, giờ đây tôi không có quyền để tước đoạt
ước mơ của con. Nhà chùa nơi mẹ con tôi xin ghé nhờ tá túc người ta quyên góp
mua tặng cho con gái tôi một chiếc xe lăn.
Từ đó khi con gái tôi lên cấp 2, con được bạn qua
chùa đẩy xe lăn giúp con gái tôi tới trường. Niềm vui vì con ngoan, học giỏi đã
giúp tôi vượt qua bao khó khăn cực khổ, giúp tôi vượt qua nỗi tủi hận về thân
phận mình vốn đã chôn sâu trong tận cõi lòng.
Con gái tôi lớn lên như một phép màu cuộc đời đậu
xuống cuộc sống khốn khổ và bất hạnh của tôi. Cùng với chiếc xe lăn con vượt
qua bao gian khó để đến với những ước mơ của riêng con. Con vượt qua bao kỳ thi
học sinh giỏi, qua bao thử thách của số phận để đón những điều tốt lành. Con
thi đỗ vào Đại học Ngoại thương, một ngôi trường mà bao bạn bè lành lặn khác,
có điều kiện sống tốt hơn con nhưng vẫn không với tới. Con trở thành sinh viên đại
học trên chiếc xe lăn, và ngày tốt nghiệp đại học, con được một công ty lớn mời
con về làm việc.
Thưa các anh các chị!
Từ ngày con gái tôi vào một công ty tài chính của nước
ngoài làm việc, hai mẹ con tôi không phải tá túc ở chùa nữa, con gái đã đưa lương
về phụ đỡ mẹ để mẹ có thể tìm chỗ thuê nhà. Tôi cũng đã mở được gánh chè trong
hẻm bán cả ngày. Những đồng tiền dành dụm từ mồ hôi nước mắt của tôi từ gánh
chè giờ không cần dùng đến nữa. Tôi tích cóp lại trong sổ tiết kiệm để mơ ước
có một ngày mẹ con tôi mua được một gian nhà nhỏ trong thành phố để ở, để cho
hai mẹ con an tâm có một chỗ của riêng mình.
Nhưng mơ ước chỉ là ước mơ thôi vì tiền lãi lời từ
gánh chè có đáng là bao. Con gái đi làm lương đã có thể đủ trang trải cho cả
hai mẹ con một cuộc sống không quá khổ nữa. Với đôi chân tật nguyền, chiếc xe lăn
sớm tối, con gái bé nhỏ của tôi đã đến và bước vào đời sống này như một niềm ân
huệ trời ban cho người mẹ đau khổ là tôi
Nhưng các anh chị ơi!
Phép nhiệm màu đã đến với mẹ con tôi không phải con
gái tôi làm được tiền, hay có công việc ổn định, mà con tôi đã có một người đàn
ông đích thực, một người đàn ông giàu yêu thương đã đến từ phía bên kia quả địa
cầu và chia sẻ cùng con hành trình trên đường đời phía trước.
Ngày có một người đàn ông cao lớn, mắt xanh, tóc vàng
đẩy xe lăn đưa con gái tôi về nhà và quỳ xuống nắm lấy hai bàn tay tôi nói bằng
ngôn ngữ tiếng Việt rất sõi rằng: «Mẹ ơi,
con xin phép mẹ cho con được yêu thương Nga và cưới cô ấy về làm vợ. Con nguyện
cả đời chăm sóc và yêu thương cô ấy mẹ ạ» thì trái tim tôi vỡ òa ra nức nở.
Cả đời tôi không biết bố mẹ là ai. Cả đời tôi không được
gọi một tiếng bố tiếng mẹ. Tôi chỉ có mõ già, lớn lên trong côi cút, hiu quạnh.
Đời tôi chưa một lần được yêu đương, tôi có thai từ những lần bị ông giáo già cưỡng
hiếp. Tôi sinh con gái ra trong tận cùng cay cực. Vì ám ảnh tội lỗi mình gây ra
cho con, khiến cho tôi khép chặt lòng mình vĩnh viễn, tôi ở vậy để dồn tất cả
tình yêu thương, mối quan tâm để nuôi dạy con nên người. Tôi cũng không bao giờ
dám nghĩ đến chuyện con gái tôi có thể học lên được đại học, tốt nghiệp giỏi,
rồi ra trường có được một công ty lớn mời về làm việc. Càng không bao giờ dám
nghĩ đến chuyện con có được một chàng trai yêu thương và lấy làm chồng.
Nếu có mơ thì cũng chỉ dám mơ con gái tôi tìm được người
cùng hoàn cảnh, thấu hiểu hoàn cảnh thiệt thòi của nhau mà có thể thương yêu
nhau nên vợ nên chồng. Càng không bao giờ dám hy vọng có một người con trai
khỏe mạnh lành lặn đường hoàng thương con gái tôi chứ chưa nói đến việc chọn
con gái tôi làm vợ.
ấy thế mà đứa con tật nguyền không nhà, không cha là
bé Nga nhà tôi không những trở thành một nhân viên giỏi, được bạn bè đồng
nghiệp quý trọng, con còn tìm được tình yêu của một người đàn ông xuyên biên
giới. Cậu ấy là người Pháp, cùng làm việc trong công ty tài chính mà con gái
tôi đang làm hiện nay, và chàng trai đó đã về tận ngôi nhà thuê trọ nhỏ bé
trong hẻm để quỳ xuống xin phép tôi chấp nhận cho cậu ấy được lấy bé Nga làm
vợ.
Kính thưa các anh các chị!
Cuộc đời tôi có là mơ không. Đám cưới của con gái tôi
được các đồng nghiệp ở công ty tổ chức một bữa tiệc nhỏ ấm cúng ở Việt
Tôi viết những dòng chữ này để chia sẻ câu chuyện của
đời tôi mà nước mắt tôi chảy giàn giụa. Tôi nhớ mõ già, người đã nhặt tôi ở
cổng chùa về nuôi, người đã trao cho tôi một niềm tin mãnh liệt để sống, để vượt
qua cay đắng tủi cực. Tôi nhớ mõ luôn động viên tôi: «Con hãy tin đi, ông trời không lấy đi của ai tất cả». Tôi đã sống
bằng niềm tin mong manh ấy. Tôi đã đến được bến bờ hạnh phúc cũng chỉ bằng một
niềm tin bé nhỏ trong vũ trụ bao la này.
Thưa các anh các chị!
Tôi định khi các con ổn định sau đám cưới, tôi sẽ kể
cho con gái tôi nghe gốc gác của con và ai là bố của con. Tôi sẽ dẫn con gái,
con rể tôi trở về làng, vào ngôi chùa làng để thắp nén hương, lạy tạ cho Mõ
già, cho Đức Phật ở đó. Tôi tin rằng, Mõ già vẫn dõi theo tôi và chở che cho
tôi đến được bến bờ hạnh phúc hôm nay.
Và còn một điều nữa, tôi muốn con tôi biết mặt bố,
cho dù ông ấy là một kẻ hèn hạ, độc ác, hay giờ chỉ còn là một nấm mộ ngoài nghĩa
trang đi chăng nữa thì con tôi vẫn có quyền được biết bố của mình là ai, và tôi
cũng nói với ông ấy một lời hàm ơn rằng vì ông ấy mà tôi có được kho báu của đời
mình.
Đà Nẵng (NTMN)
Ghi chú: Không biết tác giả là ai, chỉ thấy ghi vắn
tắt: NTMN, chỉ đoán là nữ mà thôi. TG
No comments:
Post a Comment