Những câu chuyện ý nghĩa

Những câu chuyện ý nghĩa
Những câu chuyện ý nghĩa

Saturday, May 1, 2021

Một Mảnh Tình Chung Thuỷ

Một Mảnh Tình Chung Thuỷ




Ngô Viết Trọng
(Đặc San Lâm Viên)


“Khô héo lá gan cây đỉnh Ngự,
Đầy vơi giọt lệ nước sông Hương
Quê người đành gởi thân trăm tuổi
Cuộc thế mong gì nợ bốn phương!” 
(Thượng Tân Thị)

Mùa hè năm 1914 vua Duy Tân lại ra nghỉ mát ở Cửa Tùng. Lần này triều đình chỉ định quan thượng thư Bộ Học kiêm Cơ Mật Viện đại thần Hồ Đắc Trung theo hầu ngự. Năm này vua cũng vừa bước lên tuổi mười bốn. Hai hôm trước khi đi, vua nói với ông Trung:

+ Năm nào đi nghỉ mát tôi cũng tắm, cũng bơi, cũng nằm phơi nắng trên cát một mình thật buồn tẻ quá. Nghe nói thầy có mấy người con trai cũng đang nghỉ hè, bảo họ đi chơi với tôi cho có bạn được không?

Ông Trung ngập ngừng:

- Đa tạ hoàng thượng đã chiếu cố đến đám trẻ của hạ thần. Chỉ sợ chúng quê mùa dốt nát chưa thông lễ nghĩa lỡ xúc phạm oai trời hạ thần lại mang tội.

+ Thầy ngại cho con ra tắm biển có thể gặp chuyện nguy hiểm chứ gì? Chắc thầy chưa rõ Cửa Tùng là một bãi biển đẹp, mát mẻ và yên bình nhất ở Trung Kỳ? Người Pháp vẫn mệnh danh Cửa Tùng là Nữ hoàng của những bãi tắm (La Reine des plages) mà! Tắm và nghỉ ngơi ở đó tốt cho sức khỏe lắm. Thầy yên chí đi!

- Vậy xin phép hoàng thượng cho hai con trai của hạ thần là Hồ Đắc Điềm và Hồ Đắc Di cùng đi cho vui. Nếu chúng vụng về sơ sót điều gì xin hoàng thượng lượng thứ.

+ Không sao. Điềm với Di chắc xuýt soát tuổi tôi?

- Tâu vâng, chúng chỉ trội hơn hoàng thượng một hai tuổi!

+ Quá tốt! Kế Điềm với Di còn người nào nữa không?

- Tâu, còn hai đứa. Nhưng lại đều là con gái.

+ Chắc các em đều còn nhỏ?

- Tâu vâng. Một lên mười, một mười hai.

+ Như vậy đâu còn nhỏ lắm? Thầy nên cho hai em đi chơi luôn để hai em vui chứ! Mọi thứ cần thiết tôi sẽ cho người lo giúp, thầy khỏi bận tâm.

- Tạ ơn hoàng thượng!

Khi nghe ông Trung thuật lại ý muốn của vua, mấy người con của ông đều vui mừng hớn hở. Chỉ có bà Trung lộ vẻ lo lắng nói với chồng:

- Đám con mình chưa bao giờ đi tắm biển. Ra đó lỡ gặp sóng gió bất thường hoặc rủi ro sa chân hụt cẳng ai lo cho?

Hồ Đắc Điềm trấn an mẹ:

- Mẹ khỏi lo chuyện đó. Con biết biển tắm Cửa Tùng không sâu và không bao giờ bị ảnh hưởng bởi các dòng hải lưu nguy hiểm. Nó như nằm trong một cái vịnh nhỏ được hai rặng đá ngầm thọc sâu ra biển là Mũi Si và Mũi Lai che chắn nên rất an toàn. Những khi biển có gió bão các tàu thuyền đánh cá còn có thể ghé vào neo ở đây để núp nữa mà! Bãi biển này cũng mát mẻ hơn các bãi biển khác ngay cả thời gian những cơn gió Lào gay gắt quạt lửa vào Quảng Trị hằng năm. Chính cánh rừng Rú Lịnh ở cách đó không xa đã giúp nguồn khí mát ở đây luôn được điều hòa. Mẹ cho anh em con đi một chuyến khi trở về mẹ sẽ thấy đứa nào đứa nấy hồng hào khỏe mạnh lên hết cho coi!

Cả Hồ Đắc Di lẫn hai cô em đồng loạt nói:

- Anh Điềm nói phải đó mẹ. Khí hậu ở Cửa Tùng rất tốt. Đi chuyến này trở về chúng con khỏe mạnh lên hết cho coi.

Thấy các con đều tha thiết muốn đi chơi, ông Trung quyết định:

- Thôi, được rồi, thầy mẹ bằng lòng cho cả bốn đứa đi. Nhưng đi với ngài ngự thì phải luôn giữ lễ, phải nói năng từ tốn, không được ham vui mà ồn ào. Dù cho ngài ngự có vui vẻ, dễ dãi các con cũng không được thừa dịp mà lơ đi khoảng cách giữa vua tôi. Nếu không nghe lời thầy dặn, không phải chỉ các con mang lỗi phạm thượng mà thầy mẹ cũng mang tội không biết dạy con. Phải nhớ kỹ lời thầy dặn đấy nhé.

- Chúng con xin tuân lời thầy dặn!

oOo

Lúc bấy giờ vua Duy Tân đã có sẵn một hành cung ở Cửa Tùng, nơi người ta vẫn quen gọi là “tòa Thừa Lương”, nôm na là tòa nhà để hóng mát. Tòa nhà này do viên Khâm sứ Trung Kỳ Brière cho xây dựng từ năm 1896 để làm nhà nghỉ mát cho nhân viên tòa Khâm. Năm 1907, người Pháp nghi ngờ vua Thành Thái không trung thành với chính phủ Bảo hộ nên tìm cách để truất phế ngài. Kế đó họ lập người con của ngài là Vĩnh San mới 7 tuổi lên ngôi tức là vua Duy Tân. Về sau, nhận thấy vua Duy Tân càng lớn càng lộ vẻ ưu thời mẫn thế như vua cha, người Pháp lại đâm ra lo lắng. Họ tìm cách để dẫn dụ vị vua trẻ này đi dần vào con đường vui chơi, hưởng thụ. Nhắm mục đích ấy, người Pháp nhường lại tòa nhà nghỉ mát trên cho vua Duy Tân làm một hành cung. Từ đó nhà nghỉ mát ấy được vua cho sắp xếp lại, trở thành tòa Thừa Lương. Cứ mỗi mùa hè vua lại ra đó nghỉ mát một thời gian.

Lần đó vua Duy Tân cùng quan thượng thư Hồ Đắc Trung đi Cửa Tùng bằng “xe điện”. Các thành phần khác thì đi bằng ngựa hoặc xe ngựa. Khi bốn anh em Hồ Đắc Điềm đến hành cung thì ông Trung đã có mặt sẵn để dẫn họ vào lạy chào vua.

- Muôn tâu, hạ thần xin dẫn đám tiện tử vào lạy chào hoàng thượng!

Anh em Hồ Đắc Điềm toan quì xuống lạy thì vua Duy Tân khoát tay:

+ Cho miễn lạy. Vái chào là đủ rồi. Các anh em là những người tôi mời đi chơi cho có bạn chứ không phải người đi theo để phục dịch hầu hạ. Nếu việc gì cũng giữ lễ thì còn gì là vui!

Vua lại tươi cười nhìn lướt qua bốn người:

+ Tôi mong chuyến đi chơi này sẽ làm mọi người hài lòng. Hai anh tôi đã biết tên là anh Điềm và anh Di. Riêng hai cô thì tôi chưa rõ!

Cô chị còn ngập ngừng thì cô em đã chỉ vào cô chị đáp:

- Chị của em tên Hồ Thị Chỉ, em tên Hồ Thị Hạnh!

+ Xin chào mừng hai em. Chúc hai em sẽ có những ngày rất vui.

Mọi người đều hớn hở lên tiếng cảm ơn vị vua trẻ. Riêng Hồ Thị Chỉ đã tỏ ra xúc động hơn ai hết. Đôi mắt nàng long lanh mở lớn nhưng lời cám ơn của nàng chỉ lí nhí nghe không được rõ.

Hồ Thị Chỉ là con gái áp út của ông Trung. Vốn bẩm thụ tính thông minh trời cho, lại sinh ra trong một gia đình có truyền thống học vấn, được cha và các anh chăm sóc việc học hành từ bé, mới hơn mười tuổi nàng đã khá rành cả chữ Hán lẫn chữ Pháp. Năm ấy tuy mới mười hai tuổi nàng đã bắt đầu trổ nét xuân thì, trông xinh xắn, dịu dàng rất dễ thương. Có lẽ vua Duy Tân cũng cảm nhận điều đó ngay phút gặp gỡ đầu tiên.

Từ đó buổi sáng nào vua cũng cho mời anh em Hồ Đắc Điềm cùng ra bãi biển chơi. Ngài vẫn gọi Điềm và Di bằng anh, gọi Thị Chỉ và Thị Hạnh bằng em. Họ cùng nhau bơi lội, cùng nhau nằm trên cát nhìn mây trời, cùng ngắm những đàn còng ùa chạy lung tung trên bãi cát hoặc bơi dưới nước... Lúc nào vua cũng chuyện trò thân mật, vui vẻ với anh em Điềm, Di. Thị Hạnh cũng hay nói chuyện với vua. Riêng Thị Chỉ không được tự nhiên, rất ít khi nói chuyện với vua. Nàng luôn tỏ ra rụt rè, ít tham gia vào các cuộc vui chơi chung đó. Có lẽ vua cũng hiểu lý do nên cũng không ép, không mời.

Một hôm Hồ Đắc Di hào hứng đề nghị:

- Muôn tâu, hôm nay mình chơi thi bắt còng xem ai bắt giỏi hơn cho vui, ngài ngự bằng lòng không?

Vua tươi cười nói:

+ Ừ, thi thì thi, như vậy càng thêm vui! Tôi sẽ có thưởng cho ai bắt giỏi nhất.

Thế rồi mỗi người tự kiếm một vật dụng để đựng còng. Khi cuộc thi đang nhộn nhịp, mọi người dần để ý thấy vua bắt được con nào lại thả con nấy. Thị Hạnh ngạc nhiên hỏi vua:

- Sao ngài ngự bắt được con nào lại thả con nấy vậy?

+ Bắt được con nào đếm xong thả ngay chứ giữ lâu khô nước chúng có thể chết mất. Chúng vô tội, mình không nên để chúng chết oan. Thấy con nào thoát thân được cũng tất tả chạy trốn phóng xuống nước bơi tung tăng như thế cũng đủ vui rồi.

Thế là mọi người bắt chước vua thả hết số còng đã bắt được. Vua lại quay sang nói với Điềm và Di:

+ Ai bắt bỏ tù chúng ta, chắc chúng ta cũng sẽ khổ sở vì khi mất tự do là mất tất cả!

Nói xong vua thở dài, nét mặt ngài bỗng trở nên ủ dột. Anh em Điềm, Di phải nói chuyện khỏa lấp một hồi vua mới vui vẻ trở lại với cuộc chơi.

Tối hôm đó anh em Điềm kể lại chuyện ấy cho cha nghe. Ông Trung nói:

- Tinh thần yêu nước của ngài ngự rất cao. Ngài muốn thoát khỏi sự kềm kẹp của chính phủ Bảo hộ. Đã nhiều lần ngài hỏi thầy “Thầy nghĩ sao về việc người Pháp đô hộ ta?”. Thầy chỉ biết nói với ngài “Mình đang bị trị biết làm sao được! Xin hoàng thượng thận trọng, cố gắng học hành, đường còn dài, còn nhiều vận hội mới”. Ngài không phản đối nhưng có vẻ không hài lòng. Một viên thị vệ kể với thầy, có một lần vua tự ra vườn cuốc đất trồng hoa, tay chân vua lấm đất cả. Khi ngài trồng xong, y bưng chậu nước đến cho ngài rửa tay. Bất ngờ ngài hỏi y “Tay nhớp lấy nước để rửa, thế nước nhớp lấy gì để rửa đây?” . Viên thị vệ ngẩn ngơ chưa biết trả lời sao thì ngài tiếp “Nước nhớp phải lấy máu mà rửa! Biết chưa?”. Lại một lần ngài đi câu, có quan thượng thư Nguyễn Hữu Bài theo hầu, ngài bỗng cảm thán đọc “Ngồi trên nước khôn ngăn được nước, Trót buông câu đã lỡ phải lần”, rồi ngài bảo ông Bài đối lại. Qua một lát suy nghĩ, ông Bài đối: “Ngẫm việc đời mà ngán cho đời, Đành nhắm mắt tới đâu hay đó!”. Ngài lắc đầu tỏ vẻ không bằng lòng. Ngài luôn bị ray rứt về số phận của đất nước. Thỉnh thoảng ngài đem tâm sự dò ý các quan nhưng chẳng có ai dám biểu lộ đồng tình với ngài. Ai cũng biết, trong số quan lại của Nam triều không thiếu gì tay chân của chính phủ Bảo hộ Pháp, họ lúc nào cũng sẵn sàng lập công để được thăng tiến! Vì cảm thấy mình quá cô đơn, ngài hay nổi nóng bất thường. Có lần ngài hét lớn “Các quan không có ai chịu nghe lời tôi cả. Tôi chỉ là một ông vua làm vì!”.

Hồ Đắc Di nghe đến đó bất giác thốt lên:

- Thật tội nghiệp cho ngài quá. Không ngờ nỗi khổ tâm của ngài to lớn đến thế! Có khi nào bức chí quá ngài lại nổi điên như vua cha Thành Thái không thầy?

Ông Trung hơi cau mày:

- Con cũng nghĩ là vua Thành Thái nổi điên ư? Chuyện đó rất khó nói. Sau này lớn lên các con sẽ dần hiểu được sự thật. Thầy cũng mong cái gương của vua Thành Thái sẽ giúp Đức Kim Thượng gắng nhẫn nhục để giữ mình. Chính phủ Bảo hộ lúc nào cũng dòm ngó các hành vi của ngài chứ họ chẳng bỏ sót đâu!

Hồ Đắc Di lại hỏi:

- Thầy nghĩ những lời ngài nói trong khi tức giận lại lọt đến tai chính phủ Bảo hô?

- Biết đâu được! Quan hay lính cũng có hạng này hạng khác... Ngài ngự còn quá trẻ nên dễ có lúc không kiềm chế được tánh nóng nảy của mình. Vì tánh khí đó, ngài đã phải chịu ngậm cay nuốt đắng một lần rồi!

- Chuyện ra sao thầy kể luôn cho tụi con nghe đi!

- Cách đây một hai năm thôi, một hôm nghe tin Khâm sứ Mahé đem người lên đào lăng vua Tự Đức để tìm vàng ngọc, ngài liền thân hành lên đó để ngăn chận hành vi ngang ngược ấy. Nhưng ngài lên tới nơi thì đã muộn, việc đã xong xuôi. Ngài vô cùng phẫn nộ. Khi đi ra cửa Vụ Khiêm Môn, ngài gặp vị thầy dạy ngài là ông Cao Xuân Dục từ Đại Nội mới lên, ngài kêu: “Thầy ơi, hồi cha tôi còn tại vị thì người ta không dám làm như vậy. Nay họ đặt tôi lên làm ấu chúa để đào mả, phá nhà!”. Ông Cao Xuân Dục chỉ biết khuyên: “Biết vậy thì Đức Kim Thượng nên gắng học!”. “Thầy nói tôi nghe cũng phải. Nay cha tôi đã ở xa. Tôi nguyện gắng học và xin thầy giúp cho!”. Sau đó vua tự mình viết một lá thư cho chính phủ Pháp. Ngài trình bày rõ sự kiện đã xảy ra và đề nghị chính phủ Pháp khiển trách, hạch tội mấy viên quan Bảo hộ ở Việt Nam. Ngài lại nhờ viên Toàn quyền Đông Dương chuyển thư giúp. Nhưng khi đọc thư xong, thay vì chuyển giúp, viên Toàn quyền lại thân hành đem lá thư này vào cung Diên Thọ trao cho bà Đích xem. Bà Đích liền đòi ngài vào cung Diên Thọ, bắt ngài phải xin lỗi viên Toàn quyền trước mặt ông ta và đại thần Nguyễn Thân. Không thể cãi lệnh mẹ đích, ngài phải cắn răng mà thi hành!

Thị Chỉ vẫn chăm chú lắng nghe cha kể chuyện từ đầu, giờ bỗng thở dài:

- Không ngờ ngài ngự lại khổ sở đến thế!

Thị Hạnh cũng lên tiếng:

- Bà Đích là mẹ của ngài ngự hở thầy?

- Bà Đích tên Nguyễn Gia Thị Anh, con gái ông Nguyền Thân, vị đại thần nổi tiếng đánh dẹp các cuộc nổi dậy trong nước, là mẹ đích chứ không phải là mẹ đẻ của ngài ngự. Gọi là mẹ đích vì bà là Hoàng quí phi tức là vợ chính của vua Thành Thái. Tất cả những người con khác của vua Thành Thái đều phải gọi bà là mẹ đích. Còn mẹ đẻ của ngài ngự là bà Tài nhân Nguyễn Thị Định, vợ thứ của vua Thành Thái. Cả hai bà này ở trong cung, đều có quyền quyết định mọi việc trong gia đình nhà vua, người ta vẫn quen gọi là “Lưỡng tôn cung”.

Hồ Đắc Điềm cũng thở dài:

- Hóa ra làm vua một nước bị lệ thuộc cũng khổ quá!

- Thầy rất thông cảm cho hoàn cảnh của ngài nhưng biết làm sao bây giờ? Vậy, khi chuyện vãn với ngài, nếu ngài có bắt qua chuyện quốc sự, các con phải tìm cách nói lảng sang chuyện khác ngay để ngài khỏi buồn khỏi ức. Phẫn chí quá ngài có thể nói lỡ lời. Giữ gìn cho ngài cũng là giữ gìn cho chính mình! Các con phải nhớ đấy!

Cuộc đi nghỉ mát mùa hè ở Cửa Tùng rồi cũng qua nhanh. Khi sắp giã từ, vua Duy Tân với anh em họ Hồ đều lộ vẻ bịn rịn nhau lắm. Nhất là Thị Chỉ, nàng không nói gì mà cứ rưng rưng nước mắt. Vua thấy thế nói khẽ với Thị Hạnh:

- Dỗ chị đi em. Sang năm chúng ta sẽ gặp lại!

oOo

Sau thời gian cho các con đi nghỉ mát với chồng về, bà Trung để ý thấy Thị Chỉ có vẻ hơi khác thường. Nàng ít nói, ít đùa giỡn với cô em Thị Hạnh như trước mà hay ngồi trầm ngâm một mình. Thỉnh thoảng nàng lại ngâm nho nhỏ vài câu thơ, giọng rất buồn. Một hôm bà Trung gọi nàng lại hỏi:

- Đi chơi về mệt lắm sao mà thấy con cứ thẫn thờ ra thế? Có gì vui kể mẹ nghe với nào.

- Dạ đâu có mệt, vui lắm chứ mẹ. Ngày nào cũng bắt còng, bơi lội, phơi nắng...

- Vua cũng chơi vậy sao? Ngài có hay nói chuyện với anh em con không?

- Dạ có. Nhưng ngài chỉ nói chuyện với anh Điềm, anh Di và Hạnh chứ rất ít khi nói chuyện với con.

Bà Trung cười:

-Ngài không thèm nói chuyện với con à? Sao vậy?

Hồ Thị Chỉ tỏ vẻ bẽn lẽn:

- Đâu phải vậy. Nhưng con đâu có chuyện gì để nói?

- Vậy con có nhận xét gì đặc biệt về ngài ngự không?

- Điểm đặc biệt ư? Nếu nói về điểm đặc biệt của một ông vua thì con thấy ngài có mấy điểm rất khác thường, hoàn toàn không giống ở bất cứ một ông vua nào khác mà con đã được đọc qua trong sách sử ký.

Bà Trung trố mắt ngạc nhiên:

- Ủa, con đã đọc về nhiều vị vua trong sách sử ký? Con thấy ngài khác biệt với những vị vua ấy ở những điểm nào?

- Điểm con thấy rõ nhất ở ngài là đức tính rất giản dị, khiêm tốn. Mẹ biết không? Ngài luôn gọi anh Điềm, anh Di bằng anh, gọi con và Hạnh bằng em như dân thường gọi nhau. Trong một lần khi đi chơi ngài đã thành thật tâm sự: “Thời gian này đi chơi có mấy anh em tôi thấy vui vẻ thoải mái quá! Gần gũi mãi với mấy cụ đại thần tuy học được nhiều điều hay nhưng cũng có lúc ngột quá chừng, nhiều thắc mắc của mình khó bày tỏ với các cụ quá! Các anh thấy thế nào?”. Anh Điềm anh Di đều nói: “Chúng tôi còn dại, chỉ biết lo học, chưa dám bàn đến chuyện người lớn”. “Vậy các anh cho tôi là người lớn rồi sao?”. “Muôn tâu, Ngài Ngự tuy tuổi nhỏ nhưng địa vị và tâm tư đều lớn quá có ai dám sánh? Chúng tôi đâu dám luận bàn!”. Vua cười: “Các anh đừng lầm, người có thực tài không cần có địa vị, người có địa vị chưa chắc có tài. Như tôi vì con vua nên lại làm vua chứ tài gì?”. Mẹ thấy đó, các ông vua khác nghe lời tâng bốc thì vui mừng, họ còn tìm cách khiến người khác thần thánh hóa mình lên nữa. Còn ngài thì không, lại tự nhận mình chưa chắc có tài, chỉ nhờ gốc là con vua nên được làm vua! Chưa tin mình có thực tài tất nhiên ngài phải luôn cố gắng học hỏi. Không nghe lời tán tụng, tâng bốc tất nhiên không ai có thể dùng lối mê hoặc, dua mị để lung lạc được. Một ông vua như thế chắc hẳn không phải là một ông vua tầm thường! Đó là những điểm khác thường của ngài vậy!

Nghe Thị Chỉ nhận xét về vua Duy Tân như vậy bà Trung rất mừng. Bà không ngờ lối suy nghĩ của đứa con gái mình lại có vẻ trưởng thành đến thế. Vậy đối với nàng bà đâu có gì đáng lo nữa! Chắc hẳn là nàng có phần si tình đấy, nhưng không sao. Nghĩ đến đó bà chợt thốt lên:

- Đáng tiếc!

- Mẹ nói cái gì đáng tiếc?

- Ngài ngự hẳn là một minh quân đấy. Đáng tiếc là ngài đã không gặp được thời. Cái gương của vua cha còn sờ sờ ra đó. E rằng chính phủ Bảo hộ khó để cho ngài toại chí. Mẹ nghĩ rồi đây ngài sẽ phải gặp nhiều gian truân...

Ngay hôm ấy bà thăm dò ý chồng:

- Này ông, từ sau cuộc đi chơi ở Cửa Tùng về, hình như con Chỉ nó thay đổi khá nhiều đó. Nó hay thở dài và cũng hay ngâm truyện Kiều nữa. Tôi cảm thấy lo lo về những dấu hiệu ấy.

- Ồ, có gì lạ đâu mà lo! Nó đang ở tuổi dậy thì, gái thở dài trai nằm sấp vẫn là chuyện thường. Bà hay gần gũi nó, khuyên nhủ khéo khéo sao cho nó khỏi lơ là việc học hành là được!

- Theo ông có phải nó phải lòng với nhà vua không?

- Bà căn cứ vào đâu để nói như thế?

- Thỉnh thoảng tôi lại nghe nó ngâm thơ Kiều. Tiêu biểu là hai câu “Người đâu gặp gỡ làm chi, Trăm năm biết có duyên gì hay không?”, hoặc “Nghĩ mình phận mỏng cánh chuồn, Khuôn xanh biết có vuông tròn mà hay?”. Đó không phải cái giọng tương tư thì còn là gì nữa? Thời gian này nó có gặp ai đâu ngoài ngài ngự?

- Cũng có lý! Ngài ngự cư xử với đám con mình rất thân mật, nếu con Chỉ phải lòng ngài thì cũng đúng thôi. Theo tôi biết thì ngài cũng mến nó lắm. Xứng đôi quá đi chứ. Bà gắng khuyên răn thúc đẩy nó cứ lo học hành đi đã rồi chuyện tốt lành sẽ đến thôi.

- Ông thương con gái mà nghĩ vậy nhưng hình như ông chẳng để ý đến một điều...

- Điều gì?

- Ngài ngự là người rất có lòng với đất nước nhưng còn quá trẻ, liệu ngài có tự kiềm chế để giữ mình được không? Ông thấy cái gương vua Thành Thái chứ? Nếu để con mình vướng vô chuyện đó tôi nghĩ sớm muộn nó cũng sẽ khổ theo...

- Nhưng biết làm sao bây giờ?

oOo

Thấm thoắt kỳ nghỉ hè 1915 đã gần tới. Theo thư thăm gia đình mới nhất, anh em Điềm, Di đang học ở Hà Nội cho biết chỉ trong vòng một tháng nữa họ sẽ về sum họp với gia đình. Điềm, Di cũng cho biết họ cũng sẽ có một món quà rất đặc biệt dành cho hai em gái. Vì vậy, Thị Chỉ và Thị Hạnh luôn ngóng chờ hai anh. Đối với Thị Chỉ, thật ra nàng không hẳn nôn nóng vì thương nhớ hay muốn biết “món quà rất đặc biệt” hai ông anh đã hứa tặng mà là nôn nóng đợi một kỳ đi nghỉ mát như năm ngoái. Thị Chỉ đã cẩn thận ngầm chuẩn bị những đồ trang sức cá nhân dành cho thời gian đi chơi sắp đến. Đã nhiều lần nàng rụt rè hỏi nhỏ Thị Hạnh:

- Ngài ngự có dặn em năm sau chúng ta sẽ gặp lại phải không?

Thị Hạnh hiểu ý, cười nguýt yêu cô chị:

- Đúng rồi, không lẽ em phịa ra thế sao. Ngài ngự còn bảo em dỗ chị đừng khóc nữa mà. Sao chị cứ hỏi hoài chuyện đó vậy?

- Có khi nào ngài ngự quên đi không? Hoặc ngài ngự bận công việc gì mà không đi nghỉ mát nữa? Cũng có thể ngài ngự gọi vị thượng thư khác theo chầu hầu thay thế thân phụ mình.

Thị Hạnh nhí nhảnh:

- Chị sao hay lo hảo quá! Quân bất hí ngôn mà! Ngài ngự đã hứa lẽ nào lại quên!

Thị Chỉ cười bẽn lẽn:

- Chị cũng nói chừng chừng vậy thôi.

Mấy ngày sau thì anh em Hồ Đắc Điềm từ Hà Nội về. Thị Hạnh mừng quá, hỏi ngay đến món quà đặc biệt. Khi Điềm và Di mở quà ra, Thị Hạnh mừng rỡ reo ầm lên, Thị Chỉ cũng sung sướng đến lặng người. Món quà đặc biệt của hai cô chính là hai bộ đồ tắm tân thời! Trước vẻ sung sướng của hai cô em gái, anh em Điềm, Di cũng hỉ hả nói cười.

Bà Trung lúc ấy đang bận tay nhưng thấy các con vui vẻ quá cũng tạm bỏ việc đến xem:

- Quà gì mà các con vui sướng đến thế?

Cả bốn anh em đều hướng về mẹ, Điềm khoe:

- Mẹ thấy hai bộ đồ tắm này có nhất không? Tây cũng phải hạng sang chứ hạng xoàng cũng không dám sắm đâu!

Bà Trung cầm từng bộ lên xem rồi nói:

- Đồ này thấy sang trọng, tân thời thật, hai con thương em sắm cho em như vậy quả thật có lòng! Nhưng có điều mẹ quên dặn các con, mình là người Việt phải gắng mà giữ lấy nề nếp văn hóa Việt, không nên đua đòi với Tây làm chi để người ta coi thường. Mẹ nghĩ năm nay con Chỉ cũng đã lớn rồi, không nên theo mấy anh đi nghỉ ở Cửa Tùng nữa.

Nói xong, bà lại tiếp tục đi lo công việc. Thị Chỉ nghe mẹ nói vậy đâm hoảng. Vẻ hớn hở trên gương mặt nàng phút chốc tan biến hết. Đôi mắt nàng bỗng rưng rưng lệ. Anh em Điềm, Di thấy vậy vội an ủi em:

- Mẹ nói rứa thôi chứ không chi đâu. Bọn anh sẽ xin mẹ cho em.

- Em cũng sẽ xin mẹ cho chị đi– Thị Hạnh tiếp lời.

Lời hứa sẽ xin với mẹ của hai anh và đứa em gái không làm cho Thị Chỉ yên lòng mấy. Nàng vốn biết mẹ mình tuy rất thương con nhưng cũng rất nghiêm khắc trong vấn đề giáo dục. Hình như đã mất hết cả hứng thú, nàng cám ơn hai anh rồi tiu nghỉu mang gói “món quà đặc biệt” đem cất.

oOo

Hôm ấy, trong bữa cơm tối, ông Trung nói:

- Hoàng thượng vừa cho biết tuần sau sẽ đi nghỉ mát ở Cửa Tùng. Thầy cũng được cử theo hầu ngài. Các con cũng được ngài cho phép cùng đi nghỉ như năm ngoái. Khác một điều là con Chỉ năm nay đã lớn, đi chơi không tiện. Ý mẹ muốn con Chỉ phải ở nhà với mẹ.

Thị Chỉ nghe thế liền gục mặt xuống bàn khóc ấm ức. Mấy anh em đều quay lại nhỏ to năn nỉ với bà Trung. Ông Trung cũng nhìn con gái thông cảm nhưng bà Trung lắc đầu nói:

- Ông cũng muốn cho nó đi hả? Không chịu nghe tôi sau này có chuyện gì ông đừng bảo tại tôi không biết dạy con đó nghe!

Ông Trung nói với Thị Chỉ:

- Được rồi Chỉ! Con không nên trái ý khiến mẹ buồn!

Thị Chỉ liền bưng mặt đứng dậy bỏ chạy vào phòng riêng...

Liên tiếp mấy ngày sau đó Thị Chỉ đã bỏ ăn bỏ ngủ và khóc sưng cả mắt. Anh em Điềm, Di cũng hết sức năn nỉ với bà Trung. Nhưng bà vẫn nhất định không đổi ý.

Hôm gặp lại ba anh em họ Hồ ở Cửa Tùng, vua ngạc nhiên hỏi:

- Sao thiếu mất một người?

Thị Hạnh liều tâu:

- Mẹ chúng tôi bắt chị ấy ở nhà. Chị ấy khóc quá.

Vua có vẻ buồn:

- Tội nghiệp chị ấy quá.

oOo

Sau kỳ nghỉ mát không bao lâu vua cho thị vệ đến tư dinh Hồ thượng thư xin hai tấm hình của tiểu thư Thị Chỉ đem vào Nội để “Lưỡng tôn cung” xem mặt. Cả nhà ông Trung rộn lên kẻ vui mừng người lo âu. Ông Trung cười mà trấn an vợ:

- Đó là cái diễm phúc to lớn cả vạn nhà mơ ước không được, bà còn suy nghĩ gì nữa?

- Biết vậy, nhưng tôi thương con Chỉ quá. Hình như linh tính báo cho tôi biết có điều gì không hay trong cuộc tình duyên của nó...

Ông Trung cau mặt:

- Sao nói gở vậy? Bà không nên nghĩ như thế nữa.

Một tuần sau “Lưỡng tôn cung” cho đòi vợ chồng ông Trung vào chầu để bàn định sắp xếp về lễ hỏi và lễ nạp phi. Sau đó sứ vua đệ ra nhà Hồ thượng thư một đôi bông tai và một đôi vòng vàng để làm lễ hỏi. Vợ chồng Hồ thượng thư ra quì làm lễ bái nhận. Thị Chỉ cũng ra quì lạy tạ ơn vua đã chiếu cố.

Gần cuối năm 1915, khi chỉ còn hai tháng nữa là đến ngày làm lễ nạp phi, vua Duy Tân đột ngột triệu ông Trung vào gặp riêng để cho biết ngài đã quyết định từ hôn. Quá kinh ngạc, ông Trung xin ngài cho biết lý do nhưng ngài chỉ nói “Thầy cứ về đi, rồi thầy sẽ rõ”. Không biết làm sao hơn, ông Trung đành trở về báo tin không hay cho gia đình.

Tiểu thư Thị Chỉ đã bỏ ăn bỏ ngủ, khóc ngày khóc đêm cả một thời gian khá dài. Cả nhà ông Trung phải thay nhau an ủi, khuyên nhủ để giúp nàng giảm bớt nỗi đau buồn. Họ phải luôn canh chừng nàng vì sợ dại khi thất vọng quá nàng có thể nghĩ quấy làm liều...

Hai tháng sau triều đình vẫn tổ chức lễ nạp phi cho vua Duy Tân như đã dự định, nhưng bà phi này là tiểu thư Mai Thị Vàng, con gái trưởng của quan Phụ đạo Mai Khắc Đôn, thầy học của vua. Sự việc này đã khiến một số người biết chuyện ngầm cười nhà vua cũng kén cá chọn canh, không trọng chữ “quân bất hí ngôn”. Một số khác suy đoán có thể gia đình ông Trung có vấn đề gì khiến vua không bằng lòng. Riêng tiểu thư Thị Chỉ cũng bắt đầu nẩy sinh ý định gởi thân vào cửa thiền.

oOo

Đêm mồng 3 rạng mồng 4 tháng 5 năm 1916 ở Huế đã xảy ra một biến cố quan trọng: vua Duy Tân bí mật rời hoàng cung để tham gia một cuộc khởi nghĩa chống Pháp. Nhưng việc lớn không thành, ngày mồng 6 tháng 5 vua Duy Tân bị bắt đưa về giữ ở Tam Tòa một thời gian rồi sau đó đưa qua đồn Mang Cá. Những người cầm đầu cuộc khởi nghĩa như Thái Phiên, Trần Cao Vân cũng bị bắt đem nhốt vào lao Thừa Thiên. Hai ông này biết chắc cuộc đời mình coi như đã yên, không một chút băn khoăn hối tiếc. Hai ông chỉ còn ưu tư về số phận của vị vua thiếu niên anh hùng! Họ muốn tìm cách để cứu sinh mạng vị vua yêu nước ấy. Với tinh thần đó, hai ông đã viết tờ tự thú nhận hết mọi trách nhiệm về âm mưu tổ chức cuộc khởi nghĩa về mình. Ông Trần Cao Vân còn nghĩ thêm cách cầu cứu với một viên quan có thế lực trong triều. Đó là ông Hồ Đắc Trung, đương chức thượng thư Bộ Học kiêm Cơ Mật Viện đại thần. Ông Vân đã dùng cuốn giấy quyến viết một lá thư bày tỏ nguyện vọng tha thiết muốn cứu vua lén gởi cho ông Trung. Trong thư có hai câu đối:

Trung là ai? Nghĩa là ai? Cân đai võng lọng là ai? Thà để cô thần tử biệt!Trời còn đó! Đất còn đó! Xã tắc sơn hà còn đó! Mong cho Thánh thượng sinh toàn.

Nhưng không hiểu người chuyển thư giúp lớ ngớ làm sao đó đã khiến lá thư lọt vào tay người Pháp. Thế là ông Hồ Đắc Trung bị người Pháp bắt giữ ở tòa Khâm để điều tra. May người Pháp không tìm được bằng chứng nào về sự liên hệ giữa đám khởi loạn với ông Trung nên mấy hôm sau họ thả ông ra. Khi ông Trung trở về, cả nhà xiết bao vui mừng, xúm lại hỏi han ríu rít.

Bà Trung nói:

- Thật phước đức ông bà, mấy ngày cả nhà ăn ngủ không yên!

Ông Trung cười ra vẻ tự tin:

- Mình cứ ngay thẳng mà sống tự nhiên gặp chuyện lành!

Thị Chỉ sau mấy phút vui mừng lại lộ vẻ lo lắng:

- Thưa thầy, còn tình trạng ngài ngự ra sao? Liệu người Pháp đối xử với ngài thế nào?

Bà Trung cũng tỏ vẻ băn khoăn:

- Nghe chính phủ Bảo hộ rất giận dữ vì chuyện này. Trước đây vua Thành Thái chỉ bị ghép tội “dở hơi” thôi mà còn bị đưa đi an trí ở Vũng Tàu, nay vua Duy Tân phạm tội “nổi loạn” chắc khó thoát khỏi án tử.

Thị Chỉ nghe mẹ nói thế bỗng khóc oà:

- Nếu ngài có mệnh hệ nào e con cũng không sống nổi...

Ông Trung sầm mặt suy tư. Bà Trung dỗ con gái:

- Con chớ nghĩ vậy. Việc đó ngoài tầm tay của người Việt mình. Dù sao ngài cũng đã từ hôn, con đâu có lỗi gì với ngài. Con phải quên chuyện đó đi mà sống mới được.

Thị Chỉ sụt sùi nói:

- Làm sao con có thể vô tình với ngài được? Chính vì thương, vì nghĩ đến gia đình mình ngài mới từ hôn chứ đâu phải ngài ruồng rẫy con! Chuyện xảy ra vừa qua đã làm sáng tỏ tấm lòng cao cả của ngài, gia đình mình phải biết ơn ngài mới phải chứ!

Ông Trung an ủi Thị Chỉ:

- Con có lòng với ngài như thế là đúng. Rõ ràng ngài đã ăn ở rất có hậu với gia đình ta. Thầy cũng không thể làm ngơ trước cơn hoạn nạn của ngài đâu. Ở Trung Kỳ, những vụ án liên hệ đến người Việt chính phủ Bảo hộ thường giao cho Nam triều xử trước. Sau đó chính phủ Bảo hộ sẽ quyết định y án hay xử lại. Bình thường, với chức vụ của thầy, thầy sẽ được giữ một chân trong hội đồng xét xử. Vì nghĩ vậy nên ông Trần Cao Vân đã lén gởi một lá thư nhờ thầy tìm cách cứu mạng vua. Ông ấy từng quen biết và tin tưởng thầy nên mới dám làm liều như thế. Không ngờ lá thư đó đã gây nên chuyện rắc rối cho thầy. Bây giờ chưa chắc thầy đã được dự vào hội đồng nghị án. Nếu không bị cho ra rìa, thầy nguyện sẽ hết lòng che chở cho ngài.

- Nam mô Quan Thế Âm Bồ Tát, kính xin ngài phù hộ cho thầy con không gặp trở ngại để cứu giúp nhà vua.

Hôm sau ông Trung trở lại Cơ Mật Viện. Ông vui mừng biết mình không bị tước quyền nhưng khi biết tin viên tân Khâm sứ Pháp Le Marchant de Trigon buộc Nam triều phải lên án vua Duy Tân thật nặng ông không khỏi giật mình. Viên Khâm sứ này muốn xử tử vua Duy Tân để làm gương cho các vị vua kế tiếp. Thế là toàn bộ Cơ Mật Viện phải họp ba ngày liên tiếp để thảo luận vấn đề. Nhờ đa số thành viên Cơ Mật Viện đều là trung thần nên họ cố viện mọi lý lẽ thuận lợi bào chữa để cứu vua. Cuối cùng Cơ Mật Viện đã ủy nhiệm ông Trung soạn thảo một bản án với nội dung như sau:

“Vua Duy Tân còn vị thành niên, tuy rất mực thông minh song còn cạn nghĩ, nên dễ bị bọn phiến loạn lắm mưu mô quỷ quyệt lung lạc bằng cách kích thích lòng ái quốc mà nghe theo chúng. Nếu ở vào tuổi trưởng thành thì tội ấy rất nặng, song ở tuổi vị thành niên, thiếu quân không đáng trách mà là đáng thương tình.

“Vả lại, cuộc khởi loạn chưa bùng nổ thực sự nên chưa gây một mảy may thiệt hại cho tài sản và tánh mạng của người Pháp ở kinh đô Huế cũng như ở các tỉnh khác ở miền Trung. Mặt khác, nhân dân Việt Nam rất mến thương nhà vua, thì nay, nếu lên án “tử hình” ngài, e không khỏi gây ra mầm mống rối loạn trong dân chúng, một điều mà cả Bảo hộ lẫn Nam triều chúng ta nên hết sức tránh trong lúc này – lúc mà mẫu quốc đang gặp khó khăn trong cuộc đương đầu với quân xâm lăng Đức ở trời Âu.

“Luận về tội thì quả thật thiếu quân có tội đối với chính phủ Bảo hộ, nhưng đối với Nam triều, nhất là đối với nhân dân Việt Nam mà xưa nay ngài vẫn tỏ lòng thương yêu, ngài không có tội gì hết.

“Vì các lẽ trên, tưởng cần tỏ ra khoan hồng đối với vị thiếu quân mà để cho ngài được tự do trở về với danh vị “hoàng tử” như trước. Như vậy, chẳng những đã hợp tình hợp lý mà chính phủ Bảo hộ còn được tiếng khoan dung và đại lượng, dân chúng ắt sẽ khâm phục và thỏa mãn.

“Còn đối với bọn phiến loạn chủ mưu và chúc sử nhà vua thì nên lên án nặng tối đa để làm gương”.

Chính phủ Bảo hộ đã đồng ý với tinh thần bản án. Nhân dịp Toàn quyền Eugène Charles vào Huế, Tôn Nhơn Phủ và Cơ Mật Viện đề nghị truất phế vua Duy Tân và tôn hoàng thân Bửu Đảo, con trưởng vua Đồng Khánh lên ngôi. Ba ngày sau chính phủ Pháp chuẩn y đề nghị đó và quyết định đày “Hoàng tử Vĩnh San” cùng Phụ hoàng Thành Thái sang đảo Réunion ở châu Phi.

Ngày 17/5/1916 hoàng thân Bửu Đảo lên ngôi lấy niên hiệu là Khải Định. Cũng ngày này, các lãnh tụ cuộc khởi nghĩa là Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu bị đem chém ở Cống Chém (làng An Hòa).

oOo

Ngày 2/7/1916 “Hoàng tử Vĩnh San” biệt ly xứ Huế đi Vũng Tàu để rồi ngày 3/11/1916 ngài vĩnh viễn xa rời tổ quốc sống cuộc sống lưu đày trong sự thương tiếc, kính nể của toàn dân Việt Nam. Hai mươi chín năm sau ngài qua đời ở quê người vì một tai nạn.

oOo

Sau khi vua Duy Tân đã bị lưu đày, tiểu thư Thị Chỉ ngày càng khô héo. Có một ông bác sĩ trẻ muốn hỏi nàng làm vợ, gia đình cũng muốn gả, nhưng nàng một mực từ chối. Nàng thề không lấy ai nữa mà chỉ muốn đi tu. Sau cùng ông bà Trung khuyên:

- Được rồi, thầy mẹ sẽ giúp con toại nguyện. Tu hành trước để giác ngộ bản thân, sau để cứu độ chúng sinh cũng là việc rất tốt. Nhưng trước khi đi tu, thầy mẹ muốn con có được một mớ kiến thức vững vàng để việc tu học chóng tiến bộ hơn. Vậy, con nên tiếp tục học hành một thời gian nữa. Khi con lên mười tám, thầy mẹ sẽ chính thức đưa con vào chùa.

Nghe thầy mẹ khẩn khoản đề nghị như vậy, Thị Chỉ hết sức áy náy. Hóa ra nàng đã làm phiền thầy mẹ mình nhiều đến thế. Nàng rưng rưng nước mắt thưa:

- Con xin lỗi đã làm thầy mẹ buồn. Nay con xin tuân lời thầy mẹ dạy bảo. Chỉ mong thầy mẹ thương con mà cho con được toại nguyện như thầy mẹ đã hứa.

Vợ chồng ông Trung vui vẻ:

- Ừ, Thầy mẹ đã hứa thì thầy mẹ giữ lời chứ!

Thế rồi nàng cố gắng gạt bỏ mọi ưu phiền để chuyên tâm tiếp tục học hành. Mọi sinh hoạt của nàng cũng dần trở lại bình thường. Tuổi con gái vừa đến độ mãn khai đã khiến nàng trở nên xinh đẹp mặn mà lạ lùng.

oOo

Sau khi lên ngôi, vua Khải Định thi hành chính sách đẩy lùi ảnh hưởng Hán học trong công cuộc trị dân như ý muốn của người Pháp. Khoa thi Hương năm 1915 đã là khoa thi chữ Hán cuối cùng ở Bắc kỳ. Ở Trung kỳ cũng đã được ấn định khoa thi Hương cuối cùng sẽ tổ chức năm 1918 và khoa thi Hội cuối cùng sẽ tổ chức năm 1919. Muốn đẩy lùi Hán học thì phải phát triển Tây học và Quốc học để thay thế.Lúc bấy giờ ở Huế, bậc trung học chỉ mới có một trường Quốc Học nhưng lại chỉ dành cho nam sinh. Nữ giới vẫn chưa có môi trường thuận tiện để phát triển học vấn, tài năng. Đó cũng là một nỗi trăn trở lớn của những người có lòng. Về sau, với sự đồng ý của toàn quyền Albert Sarraut, vua Khải Định đã quyết định thành lập một trường nữ trung học ở Huế. Trường được lấy chính niên hiệu của Phụ vương ngài để đặt tên: Trường Nữ Trung Học Đồng Khánh.

Lễ đặt viên đá đầu tiên được ấn định vào ngày 15/7/1917. Hôm đó cả vua Khải Định lẫn viên Toàn quyền Albert Sarraut đều đến dự. Khi vua Khải Định cắt băng mở màn việc xây dựng ngôi trường, ngài đã sững sờ trước vẻ đẹp hút hồn của cô nữ sinh dâng chiếc kéo cho ngài. Khi xong việc, ngài hỏi đám tùy tùng:

- Người dâng chiếc kéo cắt băng là con nhà ai mà khéo quá như rứa hè?

Một cận thần tâu:

- Muôn tâu, đó là con gái của Thượng thư Bộ Học Hồ Đắc Trung tên là Hồ Thị Chỉ.

- Ả có chồng chưa?

- Muôn tâu, chắc là chưa. Trước đây phế vương Duy Tân đã đi hỏi nhưng sau lại thoái hôn.

- Được, không cần, rồi trẫm sẽ biết thôi.

Sau khi cho điều tra lý lịch của Hồ Thị Chỉ xong, vua Khải Định triệu Hồ Đắc Trung vào cung để hỏi ý. Vua thành thật nói:

- Hôm nay trẫm triệu khanh vào đây để bàn cùng khanh một chuyện rất quan trọng. Trẫm nghe tiếng khanh có một ái nữ là Thị Chỉ rất giỏi chữ Hán lẫn chữ Pháp. Trong lần cắt băng khai mạc công trình xây dựng trường Nữ Trung Học Đồng Khánh, trẫm đã hân hạnh thấy được dung nhan nàng. Đúng là một mỹ nhân sắc nước hương trời, rất xứng ở địa vị mẫu nghi thiên hạ. Nay trẫm cũng rất cần một người vợ nói giỏi tiếng Pháp để tiện bàn các việc cơ mật. Trước đây trẫm đã có một người vợ là con gái của thượng thư kiêm Cơ Mật Viện đại thần Trương Như Cương. Nhưng bà ấy đã xin về nhà ba năm rồi. Nay cưới ái nữ của khanh về trẫm sẽ phong làm hoàng phi. Trẫm cũng đã có một người con trai với một cung nữ nay đã lên bốn, cậu bé này sẽ là con của hoàng phi. Trẫm nghĩ đây là một việc tốt cho khanh nên báo trước để khanh hay.

Ông Trung nghe vua nói thì tá hỏa tam tinh vì ông biết chắc Thị Chỉ khó mà chấp nhận cuộc hôn nhân này. Và dẫu Thị Chỉ chấp nhận đi nữa thì nàng sẽ đau khổ vô cùng. Nhưng mệnh vua làm sao dám cãi. Bất đắc dĩ ông phải quì xuống lạy tạ ơn:

- Đa tạ hoàng thượng.

Vua Khải Định nói:

- Trẫm sẽ triệu vợ chồng khanh một lần nữa để bàn định về lễ hỏi, lễ nạp phi. Giờ cho phép khanh trở về.

Vừa về tới dinh, ông Trung lật đật gọi vợ vào phòng riêng thuật lại câu chuyện. Bà Trung khóc thút thít:

- Bây giờ làm sao? Tôi đã linh cảm biết cái số con Chỉ nó khốn đốn như thế. Nó đã chịu khổ quá nhiều rồi! Tôi làm sao dám mở miệng để khuyên ép nó nữa?

Ông Trung thở dài:

- Lệnh vua không tuân có khác chi làm phản. Không khuyên ép nổi nó thì cuộc sống của cả nhà mình lâm cảnh nguy hiểm bấp bênh ngay. Bà thử gọi con Hạnh nói rõ chuyện với nó may ra nó khuyên giải chị nó được. Con Hạnh khôn ngoan, lý lẽ sắc bén, chị em nó lại thân thiết nhau, hi vọng nó có thể thành công.

Thế là bà Trung gọi Thị Hạnh vào nói chuyện...

Quả đúng khi biết yêu cầu của vua Khải Định, Hồ Thị Chỉ đã đay đảy không chịu, một mực đòi đi tu. Khi ấy Thị Hạnh mới ra tay thuyết phục:

- Chị nghe em nói đây. Chị là người có hiếu, chị lại rất thông suốt truyện Kiều, sao chị lại để chữ hiếu của chị thua sút nàng Kiều như thế? Lệnh của vua ra mà không tuân thì có khác chi làm phản? Mà người chịu trận trước hết là thân phụ chứ còn ai nữa? Chị có tưởng tượng nổi nỗi khổ của thân phụ không? Mà dù thân phụ được tha đi nữa thì cũng chẳng còn được dùng. Các anh sẽ phải bãi chức hoặc nghỉ học hết. Thầy và các anh mình đều là hạng văn nhân yếu đuối liệu có thể về đi cày để nuôi thân được không? Nàng Kiều dám hi sinh tình yêu đôi lứa, bán mình chuộc cha sao chị lại không chịu hi sinh để cứu cha và cứu cả gia đình đang rơi vào vòng hoạn nạn? Nếu chị đã phát nguyện đi tu, em xin kế tục thực hiện ý nguyện đó giúp chị.

Nhờ Thị Hạnh kiên nhẫn ỉ ôi thuyết phục mấy đêm, cuối cùng Thị Chỉ đành nghe lời.

Triều đình đã tổ chức lễ nạp phi rất long trọng vào ngày 3/12/1917. Hồ Thị Chỉ đã được phong Nhất giai Ân phi, ngôi vị cao nhất trong hàng thê thiếp của nhà vua dưới triều Nguyễn (trừ hai đời Gia Long và Bảo Đại).

Từ đó, Hồ Ân phi luôn xuất hiện bên cạnh vua trong những buổi tiếp tân, yến tiệc với người ngoại quốc. Nhờ vẻ xinh đẹp, hiểu biết rộng rãi, thông thạo tiếng Pháp, lại ăn nói khôn khéo nên bà đã giúp vua Khải Định gây được nhiều cảm tình với khách.

Tuy vậy, đó chỉ là bề mặt của cuộc sống mà vua Khải Định cần thiết. Bên trong hẳn ai cũng đoán ra cái cảnh đồng sàng dị mộng. Vua Khải Định thì bất kham với đàn bà, Ân phi lại luôn bị hình bóng người xưa khuấy động...

Chín năm sống với vua Khải Định, Ân phi chẳng sinh được mụn con nào.

Năm 1925, vua Khải Định qua đời. Cậu bé bốn tuổi thời Ân phi mới vào cung giờ là Đông cung Thái tử Vĩnh Thụy lên kế vị tức vua Bảo Đại. Vua Bảo Đại đã làm một cuộc thay đổi lớn về nghi thức nội cung: phong cho mẹ đẻ ngài là Hoàng Thị Cúc làm Đoan Huy Hoàng thái hậu (tức bà Từ Cung). Theo nghi thức cũ thì bà Ân phi Hồ Thị Chỉ chính là mẹ đích của vua Bảo Đại và ở bậc trên của cung nữ Hoàng Thị Cúc - mẹ đẻ vua Bảo Đại. Thế mà nay bà đã bị gạt ra ngoài một cách phũ phàng. Chắc hẳn sự thay bậc đổi ngôi này đã gây xáo trộn tâm tư bà không ít. Bà không được tôn phong, phải về sống ở cung An Định bên bờ sông An Cựu. Về sau bà dời về trú ngụ ở một ngôi biệt thự trên đường Phan Đình Phùng.

Ra khỏi nội cung, Ân phi không còn bận rộn công việc như trước. Càng rảnh rang bà càng dễ dàng thả hồn trôi về quá khứ. Càng hồi tưởng những kỷ niệm xa xưa bà càng thương nhớ vị vua thiếu niên một lòng vì nước vì dân. Ngày kia, trong một lần ghé về thăm thân phụ, tình cờ thấy mấy tờ báo Nam Phong, bà lấy một tờ lật ra xem và hết sức xúc động khi đọc chùm thơ liên hoàn mười bài Khuê Phụ Thán của tác giả Thượng Tân Thị. Bà đã bật khóc khi đọc đến đoạn:

“Khô héo lá gan cây đỉnh Ngự,Đầy vơi giọt lệ nước sông HươngQuê người đành gởi thân trăm tuổiCuộc thế mong gì nợ bốn phương!”

Khi từ giã thân phụ bà đã xin số báo đó đem về. Bà đã nâng niu, giữ gìn nó như một bảo vật, lâu lâu lại đem ra đọc lại.

Có lẽ vì nội tâm chịu đựng quá nhiều áp lực, bà dần trở nên lẩn thẩn. Bà quên đi cả việc chăm sóc cho chính mình. Bà thường ăn mặc lôi thôi, không đoái hoài đến chuyện trang điểm. Nhiều lần bà tự làm bánh bột lọc hoặc bánh nậm đem ra chợ An Cựu bán. Một thời gian sau bà thật sự lâm vào cơn bệnh tâm thần...

Ngô Viết Trọng
(Đặc San Lâm Viên)

(Truyện này viết dựa theo nhiều tài liệu mà tài liệu quan trọng nhất là thiên hồi ký về vua Duy Tân của Sư Bà Diệu Không, thế danh Hồ Thị Hạnh, em gái của nhân vật chính Hồ Thị Chỉ trong truyện. NVT).

Monday, April 26, 2021

Những oan hồn vất vưởng

  

Những oan hồn vất vưởng

Lưu An

https://viettudomunich.org/2021/04/24/nhung-oan-hon-vat-vuong/



Vài hàng phi lộ.

Có lẽ khi nói đến hiện tượng ma quái, những người có niềm tin tuyệt đối vào khoa học thực nghiệm họ sẽ cho đó là chuyện hoang đường không có thật, một tưởng tượng quá mức phản lại khoa học. Nhưng khi bước vào thực tế có những người có trình độ khoa học, rất thông thái, họ không phải là dạng người dễ dàng tin điều gì mà họ không cảm nhận được một cách chính xác. Nhưng họ cũng phải chấp nhận có những hiện tượng mơ hồ bước ra khỏi giải thích của khoa học. Những hiện tượng này không có nhiều nhưng vẫn làm cho người ta không thông suốt khi tìm cách giải thích nó trong khoa học. Ngay như đức Khổng Tử một nhà hiền triết tuyệt đỉnh của Đông phương. Khi được hỏi đến hiện tượng ma quái, ngài đã không đề cập đến tin hay không tin mà chỉ khuyên người ta nên đứng xa, tỏ lòng kính ngưỡng.

Rồi ở Mỹ, quốc gia của vật chất, văn minh khoa học nhưng chưa có ai giải thích thỏa mãn những căn nhà hoang phế, không ai dám đến cư ngụ vì có ma. Hiện tượng này không thể là một trò bịa đặt vì nó xẩy ra cho bất cứ ai cư ngụ. Hay ở một đoạn đường vào ban đêm, nhiều người bị hỏng xe, rồi một ông linh mục hiện ra giúp đỡ, chính là người đã bị chết vì tai nạn giao thông trên đoạn đường này hàng chục năm về trước.

Cá nhân tôi học hành, làm việc và sống hơn 40 năm trời ở quốc gia tân tiến, tinh thần khoa học đã thấm sâu vào trí não, không cho phép tôi tin vào chuyện ma quỷ hiện hình, bùa phép... Nhưng một lần nào đó chính tôi đã gặp hay nghe từ những người mà tôi biết chính họ cũng không tin hiện tượng ma quái và họ cũng như tôi phải ngẩn ngơ không hiểu!

Trong bài viết tìm vui này tôi tìm cách nối kết những hiện tượng mà chính cá nhân tôi cảm nhận cùng với những lời kể của người khác, những người mà tôi không có lý do gì để nghĩ họ thêu dệt. Rồi từ những sự kiện đó nhờ văn chương, chữ nghĩa đem nó vào một câu chuyện tạo ra một niềm vui, giải trí cho người đọc. Ai muốn tin để cho lòng mình có tí chút lơ lửng với tưởng tượng, tìm một khoảnh khắc nhấn mình trong mộng ảo, đó không phải là một thích thú lắm sao? Ngược lại, ai mỉm cười mà phủi nhẹ bàn tay, coi là một chuyện hoang đường vớ vẩn của một kẻ dùng cái ướt át của văn chương để ma mị nhân gian thì cũng có gì đâu mà kẻ viết này phải bực bội, chán chường ? Nhưng dù thế nào, tin hay không tin thì cuộc sống vẫn chuyển động “không có chị thì chợ vẫn đông“. Không có kẻ múa bút văn chương kể lể chuyện tầm phào này thì cuộc đời vẫn đầy rẫy nụ cười trong vui tươi nhưng cũng chẳng thiếu những bóng dáng khốn khổ, lầm than. Đời là thế, toàn chứa những âm vang của một vở kịch bi hài.

*****

Vào truyện.

Trong thời gian sống và học tại Nhật bản, tôi có hai người bạn đã ghi sâu vào trí nhớ và cảm xúc của tôi khá sâu. Người bạn đầu tiên, anh ta là người Nhật, tên là Shotaro là con trai duy nhất của một gia đình có 4 anh chị em. Trên anh ta là người chị gái đã có gia đình sống riêng biệt, dưới là 2 cô em gái là sinh viên ngành sư phạm. Gia đình Shotaro khá giàu có, thuộc thành phần thế lực từ ngày xưa. Bố của Shotaro là luật sư của toà án tỉnh, một người cha rất nghiêm khắc với con cái. Trong chiến tranh thứ 2 ông là một sĩ quan ngành quân pháp của Nhật ở Đại hàn. Chiến tranh chấm dứt ông bị Nga cầm tù và đem sang Siberia lao động nhiều năm để xây dựng đường xe hỏa Viễn đông, chính vì vậy ông rất thù ghét Nga sô và Đại hàn.

Mẹ của Shotaro trái lại rất cởi mở, rất thương và chiều con, bà thường dấu chồng cung ứng tiền bạc và che chở cho các con mỗi khi bị bố mắng chửi. Với tôi bà cũng rất ân cần, mỗi khi Shotaro rủ tôi đến nhà chơi, tôi luôn được bà giữ lại ăn cơm. Để tránh ánh mắt nghiêm nghị của chồng, bà và mấy cô em gái thường bầy riêng cho chúng tôi mâm cơm khác trên lầu, phòng riêng của Shotaro. Đã thế lúc ra về tôi còn được bà nhét cho một bịch nào là bánh ngọt, trái cây. Nếu bất chợt gặp tôi lang thang trên phố hay ở siêu thị, bà kéo tôi vào quán ramen (tương tự món hủ tíu mì, rất thông dụng ở Nhật) bắt tôi ăn, bà chỉ ngồi nhìn hay nói chuyện về các con của bà hay hỏi vu vơ về gia đình tôi ở VN. Lòng tốt và hình ảnh của bà đôi khi đã làm tôi rướm nước mắt, kéo tôi về quá khứ với người mẹ kính yêu của mình, thời đó gia đình tôi quá nghèo, mẹ tôi đã phải tần tảo bán hàng rong để nuôi anh em chúng tôi ăn học. Đôi khi thấy con đói, mẹ dẫn tôi vào tiệm ăn phở, cũng như bà, me tôi cũng chỉ ngồi nhìn, không ăn. Mãi sau này lớn khôn, nhớ lại tôi mới biết mẹ không ăn chỉ vì quá nghèo không dám bỏ tiền cho cả hai mẹ con. Khi khôn lớn, ra đời, có điều kiện về vật chất thì mẹ đã ra người thiên cổ!

Nhà của Shotaro cũng ở trong tỉnh, không quá xa căn nhà trọ của tôi. Có lẽ vì ông bố quá khắt khe nên Shotaro không thích ở nhà nên rất thường đến nhà tôi chơi, anh thường mang bánh trái, hay 5, 6 lon bia và vài món ăn để nhâm nhi nói chuyện hay xem TV. Chính vì vậy Shotaro cũng trở nên một thành viên rất thân tình với nhóm bạn của tôi. Vào những ngày nghỉ lễ hay cuối tuần, nhất là gặp những ngày hè nóng bức, Shotaro thường mang xe của gia đình chất đầy đồ ăn, nước uống chở chúng tôi đến một thị xã cũng không xa thành phố, địa phương có bãi biển khá đẹp. Trong nhóm bạn cũng có một người sống ở đó, vì thế mỗi lần đi chơi như vậy, chúng tôi lại được gia đình bạn mời đến nhà ăn uống. Những lần đi chơi như vậy, chúng tôi thường về lại thành phố rất khuya .

Không biết, có phải vì sự đưa đẩy kỳ lạ của định mệnh hay không, vào một buổi sáng cuối tuần nắng nóng, Shotaro mang xe đến chở chúng tôi đi tắm biển. Suốt ngày vẫy vùng với sóng biển, buổi chiều, thay vì theo người bạn địa phương đến nhà anh ta ăn cơm tối như mọi lần, Shotaro đề nghị mời bạn bè đến một quán ăn cá sống (sashimi) không xa bãi tắm. Dĩ nhiên là cả nhóm vui mừng đồng ý vì chẳng ai trong chúng tôi là người không khoái khẩu với món ăn truyền thống, độc đáo này của Nhật bản.

Một sự việc xẩy ra đã làm cho chúng tôi ngạc nhiên và cũng khởi đầu cho sự bi đát đến với gia đình Shotaro. Một quán ăn khá bình dân ở miền quê, vỏn vẹn với 4 cái bàn ăn ngắn chân xếp trên sàn lót chiếu, quán chỉ có 2 người phụ nữ phục dịch, trong đó một người là một cô gái Đại hàn. Trung thực mà nhận xét, tất cả nhóm bạn của tôi trừ Shotaro đều thấy cô gái hầu bàn này chẳng có gì để nói là đẹp, nếu không muốn nói là dưới mức trung bình. Trừ làn da rất trắng, nhưng cái trắng hơi thô không mịn màng như da của các cô gái Nhật bản. Khuôn mặt bầu bĩnh lại thêm cặp mắt một mí càng làm cho mặt cô ta có vẻ tròn hơn. Tuy nhiên phải công nhận cô gái có nụ cười rất duyên dáng, giọng nói ngọt ngào âm điệu rất nhu hoà pha cái nhí nhảnh dễ thương khiến người nghe phải cảm mến cô ta.

Ngay khi cả nhóm vừa bước qua ngưỡng cửa quán, cô gái tiếp đón niềm nở cúi đầu, nói vài câu chiêu khách rất ngọt ngào, lịch sự rồi dẫn cả chúng tôi đến 2 cái bàn trống. Shataro đưa mắt nhìn cô ta rất lạ lùng, như bị cuốn hút lạ kỳ bởi cô gái Đại hàn. Suốt bữa ăn, anh là người bắt chuyện với cô gái nhiều nhất. Chúng tôi cũng cảm thấy kỳ lạ, thỉnh thoảng chúng tôi lại đùa dỡn vun vào tình thân của họ với những câu chọc ghẹo, giới thiệu tánh tình gia thế của Shotaro cho cô gái nghe.

Sau bữa ăn, chúng tôi nghĩ chẳng có gì để nói nữa bởi vì chỉ là chuyện thoáng qua, đùa giỡn bên đường mà thôi. Nhưng bỗng một hôm Shotaro đến nhà tôi chơi, anh ta không đến một mình mà kéo theo cô gái phục vụ quán ăn, gốc Đại hàn. Sau một lúc ngạc nhiên và hỏi han, tôi được biết là sau lần gặp mặt đó Shotaro đã nhiều lần một mình đến quán ăn và cuộc quen biết đã thăng tiến và họ đã trở thành cặp tình nhân. Gygong tên cô gái, ông nội cô ta là công nhân nhà máy đến Nhật bản từ thời Nhật chiếm đóng rồi chiến tranh chấm dứt họ ở lại Nhật. Dù đã ba đời sống và làm việc, hấp thụ văn hoá Nhật nhưng toàn thể gia đình cô ta vẫn chưa được vào quốc tịch Nhật bản đời sống của gia đình cô ta vẫn thuộc giới nghèo thấp trong xã hội Nhật.

Cũng từ đó thỉnh thoảng Shotaro vẫn mang Gygong theo trong những cuộc gặp mặt, đi chơi của chúng tôi, Gygong đã nghiễm nhiên gần gũi và thành người bạn mới của nhóm. Nhiều lần cô ta cũng đến phòng trọ của tôi nấu cơm Đại hàn cho chúng tôi thưởng thức. Những cuộc đi chơi xa hay lê la ở những quán bar, uống rượu trên trung tâm thành phố, Shotaro vẫn mang cô ta đi theo, họ đúng nghĩa là một cặp tình nhân đang thời khắng khít.

Nhưng một điều rất rõ rệt, mọi người đều biết là cuộc tình này đã bị toàn thể gia đình Shotaro phản đối. Đặc biệt với ông bố, ông ta tìm đủ mọi cách ngăn cản chia rẽ Shotaro và Gygong. Ngay cả việc ông đã bỏ công việc và cùng với vài người bạn có chức vị của địa phương nơi gia đình Gygong sinh sống, trực tiếp gặp Gygong, dùng lời lẽ nửa khuyên răn, nửa đe doạ yêu cầu Gygong hãy chấm dứt, đừng mơ tưởng hão huyền mà thương yêu con trai của ông. Ông chẳng ngại ngần cho biết không bao giờ có chuyện ông chấp nhận cô ta là con dâu. Nhưng tất cả những cố gắng của bố mẹ và gia đình cũng chẳng thay đổi khác được, Shotaro vẫn tìm đến với Gygong, anh ta tìm đủ mọi cách hẹn hò, ngay cả việc học hành cũng bị sao lãng, Shotaro rất thường vắng nhà mà còn dẫn Gygong đi du lịch nhiều khi 3,4 ngày mà không nói cho gia đình biết. Thấy sự quyết liệt của Shotaro, bà mẹ và các chị em gái cảm thấy không thể làm khác được nên họ đã có phần nào cảm thông và che chở cho Shotaro mỗi khi bị ông bố mắng chửi. Căn nhà trọ của tôi, nó đã dần dần biến thành nơi gặp gỡ, truyền tin giữa bà mẹ và các em gái của Shotaro với anh ta mỗi khi có gây gỗ với ông bố và anh ta bỏ nhà ra đi. Tôi cũng chẳng biết làm gì hơn là đóng vai trò trung gian chuyển tin tức, tiền bạc, vật dụng cho Shotaro và Gygong.

Cuộc tình yêu sóng gió đó vẫn tiếp tục, cường độ gió bão không có dấu hiệu suy giảm đã khoảng gần một năm đi qua. Shotaro gần như điên cuồng mỗi khi gặp mẹ hay các em kể lể về những cơn nóng giận, đe dọa của ông bố. Đã vài lần tôi đã phải tế nhị bỏ đi chỉ vì không muốn nhìn cảnh bà mẹ đẫm nước mắt, rấm rức ôm lấy con trai năn nỉ hãy chịu nhường nhịn bố tí chút để trở về với gia đình.

Bất thình lình một hôm, tôi được cô em gái của Shotaro khóc nức nở điện thoại cho biết Shotaro đã thắt cổ tự vận ngay trong căn phòng riêng trên lầu, nơi tôi và vài người bạn khác đã quá quen thuộc vì những bữa cơm ngon lành do bà mẹ và các cô em khoản đãi mỗi khi chúng tôi đến chơi. Phải nói là cú điện thoại buồn đau, ngỡ ngàng đó đã làm tôi bàng hoàng, mắt tôi hoa lên, đôi chân của tôi gần như không còn đứng vững, muốn quỵ xuống nền lan can, nơi có máy điện thoại chung cho cả dẫy nhà trọ.

Tôi và vài người bạn trong nhóm trong đó có cả Tari người bạn rất thân của tôi và Shotaro, anh ta cũng là sinh viên đến Nhật bản du học như tôi nhưng là người Thái lan. Đây cũng là người bạn mà tôi không bao giờ quên, tôi sẽ nói về anh ta trong phần cuối câu truyện này. Chúng tôi đến tham dự đám táng của Shotaro từ đầu đến cuối, lúc xác được làm lễ bỏ vào quan tài cho đến khi đem đến một ngôi chùa Thần đạo để hỏa táng. Tôi cùng với vài người thân và toàn thể gia đình đã được hân hạnh cầm chiếc kẹp mạ bạc gắp những khúc xương trắng chưa tan thành bột, bỏ vào chiếc hũ bằng sành rồi làm lễ chuyển đến nơi thờ phượng của gia đình.

Cô em gái của Shotaro cho biết, buổi tối trước khi tự tử, Shotaro có một cuộc cãi vã rất lớn tiếng với ông bố. Gia đình can ngăn nhưng cũng chẳng đến đâu, nên mọi người chán nản bỏ đi ngủ. Có lẽ khoảng giữa đêm, Shotaro đi vào phòng ngủ, mọi người nghĩ rằng chuyện cãi vã đã được tạm yên. Nhưng sáng hôm sau thấy đã muộn mà con chưa dậy, bà mẹ lên gọi mới biết rằng Shotaro đã treo cổ lên chiếc xà ngang của căn phòng tự vẫn. Trên bàn chỉ có một tờ giấy ghi vỏn vẹn vài câu đại ý than trách tánh tình cố chấp, độc tài và thiếu cảm thông của bố. Kết án bố không biết gì về tình yêu, chỉ khăng khăng dựa vào lý trí và nhất là mang thành kiến sai lầm thù ghét người Đại hàn để rồi ngăn cản tình cảm của con. Shotaro không nói gì về mẹ, bà chị và các em trong lá thư tuyệt mệnh.

Shotaro chết được khoảng một tuần lễ, chúng tôi lại được một tin buồn từ gia đình người bạn ở thị xã ven biển, nơi mà Shotaro gặp và yêu Gygong. Gia đình người bạn cho biết Gygong cũng vừa nhẩy xuống biển tự tử, nơi mà Shotaro vẫn hẹn cô ta ra ra đó để tâm tình. Mấy ngày sau người ta mới tìm thấy xác Gygong nổi lên, táp vào một làng chài lưới cách đó không xa. Chúng tôi đã đến quá muộn khi đám táng của Gygong đã hoàn tất, gia đình cô ta cho chúng tôi biết, trước khi chết vài ngày, Gygong nói với mọi người là trong một giấc mơ, Shotaro hiện về, hẹn cô ta đến bãi biển nơi mà hai người từng hò hẹn ngày trước. Rồi Gygong đã y lời đến đó vào ban đêm, khi trở về nhà cô ta cho gia đình biết đã thực sự gặp lại hồn ma của Shotaro nơi hò hẹn. Mọi người cũng tưởng rằng Gygong mê sảng mà nói vu vơ, nhưng hôm sau Gygong im lặng bỏ nhà ra đi, buổi tối vẫn không thấy về, gia đình tưởng cô ta buồn vì cái chết của Shotaro mà bỏ lên tỉnh thăm viếng bạn bè như trước kia. Nhưng hôm sau lúc thu dọn phòng, cha mẹ Gygong tìm thấy một lá thư của Gygong nhét dưới khay đựng tách uống trà. Đại khái xin lỗi gia đình vì quyết định tìm chết của mình, cô ta cho biết đã gặp gỡ hồn ma của Shotaro trong đêm ra biển vừa qua, hai người đã hẹn gặp lại nhau trong thế giới bên kia.

Sau cái chết của Shotaro và Gygong tôi và nhóm bạn gần như bị mất cân bằng vì sự việc xẩy ra quá bàng hoàng, ngoài sức tưởng tượng. Chúng tôi chẳng còn thích thú gì để ăn nhậu hay rủ nhau đi quán bar, vũ trường như trước nữa. Tuy vậy căn nhà trọ của tôi vẫn là nơi chúng tôi tụ họp, nhưng không trong bầu không khí vui nhộn, đầy tiếng cười đùa như ngày trước, thay vào đó là sự thê lương, buồn bã luôn luôn phủ trùm lấy cả chúng tôi vì không gian và vật thể kéo trí nhớ chúng tôi về với cuộc tình bi đát của họ. Với ấm trà xanh, vài chiếc bánh ngọt chúng tôi thường ngồi với nhau, kể lể về những lần gặp gỡ, vui đùa và nhắc lại lòng tốt, yêu thích bạn bè của cặp tình nhân khắng khít đa tình nhưng bất hạnh đó mà lòng buồn rười rượi.

Đôi lần tôi cũng gặp gỡ bà mẹ và các cô em của Shotaro trên đường phố, hay thỉnh thoảng tôi cũng tạt vào thăm họ, thắp vài nén hương trước bàn thờ chung của gia đình, nơi đó có tấm ảnh của Shotaro lồng kính, trong lễ hoả táng. Không khí thê lương bao trùm cả căn nhà khá rộng rãi, sang trọng cùng với những khuôn mặt u buồn, nét đau khổ hiển hiện trong ánh mắt, trong dáng đi của mọi người trong gia đình của Shotaro. Nhất là bà mẹ, chỉ vài tuần lễ sau ngày Shotaro chết, bà như bị già đi 10, 15 tuổi. Bước chân của bà chậm rãi yếu đuối như bị đè nặng bởi tấm thân, làm cho lưng bà bị còng hẳn xuống. Gặp tôi bà mất hẳn đi nét vui mừng trước kia, nhưng mỗi khi tôi nói lời từ giã, bà lại nắm lấy tay tôi năn nỉ tôi ở lại với bà thêm chút nữa. Bà đưa cho tôi xem vài cuốn album chụp con trai của bà, từ lúc ấu thơ đến ngày nó chỉnh tề trong bộ veston trong chiếc khuôn hình để trước chiếc quan tài sơn đen đính vào đó những hoa văn mạ vàng! Có lần bà đưa mắt nhìn tôi rất kỹ, như muốn tìm một cái gì đó trên con người tôi để giúp bà tưởng nhớ về đứa con trai duy nhất của bà, rồi miệng nói bâng quơ như tự nói cho bà nghe:

- Con ơi, con sẽ chẳng bao giờ trở về với mẹ nữa, đứa con trai duy nhất, đáng thương của mẹ. Chỉ vì ba của con đã quá khắt khe, quá cường điệu trong tình cảm để rồi ba con đã không hiểu được tình yêu kiên cường của con, làm con phải buồn đau, con ra đi để tìm cái ước muốn siêu linh phải không con, đứa con yêu của mẹ? Nhưng con ơi, mẹ có tội tình gì mà con nỡ bắt mẹ phải buồn đau vì mất con thế hả, Shotaro?!

Rồi vào ngày lễ 49 ngày, tôi được gia đình Shotaro mời đến, lần đó tôi gặp ông bố. Nhìn ông, tôi không thể nào tưởng được ông đã suy xụp đến mức kinh khủng như vậy. Chỉ mới đúng 7 tuần lễ sau ngày Shotaro, con ông chết, ông khác lạ đến nỗi tôi không thể tin vào nhãn quan của mình. Đôi xương gò má của ông nổi cao hẳn lên, mầu da mặt tái xanh, thiếu máu, mất đi hoàn toàn vẻ phương phi,cương nghị của một người cha trí thức rất tự tin trước đây. Ánh mắt ông lờ đờ như một người mệt mỏi đang ngái ngủ, tôi nhìn thấy rất rõ sự buồn thảm hoà trộn với lòng ân hận đang dày vò tâm tư ông.

Sau khi vị chủ lễ trong giáo phái thần đạo đã làm xong những thủ tục cúng lễ, mọi người ngồi quây quần quanh mấy chiếc bàn uống trà. Ông bố Shotaro đến gần tôi cúi đầu chào rất sâu, nói với tôi vài lời cám ơn đã là bạn chí thiết của con ông khi sống và là người vẫn nhớ đến nó khi nó rời xa. Chờ cho tôi cúi đầu trả lễ nói vài câu đáp từ trong khuôn phép của Nhật bản, ông nắm nhẹ bàn tay tôi, đưa cặp mắt rất buồn đẫm lệ nhìn tôi, ông nói như than van:

- Bác ân hận quá. Một sự khắt khe đầy ngu ngốc! Bác đã không thể ngờ được thằng Shotaro nó lại dại dột và liều lĩnh như thế. Nhưng bây giờ tất cả đã chấm dứt và quá muộn rồi! Đau khổ của bác hôm nay vẫn còn quá nhẹ so với lỗi lầm mà chính bác đã gây ra!...

Nghe ông nói, đôi mắt tôi cũng nhoà lệ, lòng tôi như trĩu nặng vì cảm thương nỗi đau buồn, ân hận to lớn đang dằn vặt trong lòng ông. Đúng như ông nói, tất cả đã muộn màng, cái sai lầm của ông không thể sửa chữa được nữa. Sự đầy đoạ vì hối hận sẽ kéo dài suốt những năm tháng còn lại trong đời ông.

Cũng trong lần lễ 49 ngày, tôi được bà chị cả kín đáo cho biết, rất nhiều đêm, mọi người trong gia đình đều nghe thấy những tiếng khóc than, cãi vã, to tiếng từ trong phòng của Shotaro vang ra, tiếng vang giống như tiếng Shotaro từng cãi vã với ông bố trước kia. Tôi nghe bà chị kể, dù không nói ra nhưng trong lòng tôi nghĩ chỉ là sự tưởng tượng, có lẽ vì quá buồn đau với cái chết của Shotaro nên mọi người đã bị hoang mang mà tưởng tượng ra mà thôi.

Sau đó khoảng hơn một năm, tôi lại được cô em của Shotaro báo tin ông bố bị bệnh nặng phải nghỉ việc làm, đi cấp cứu tại bệnh vìện tỉnh. Tôi chưa kịp đi thăm vì bận rộn với thi cử thì được tin ông mất! Cũng chẳng lâu hơn 2 tháng tôi lại ngỡ ngàng nghe tin bà mẹ cũng ra đi! Với những tin buồn dồn dập, ngoàì sự tưởng tượng đó đã làm tôi và nhóm bạn bàng hoàng, chưa đầy 6 tháng trời mà 3 người trong gia đình Shotaro đã nối tiếp ra đi!

Sau ngày bà mẹ của shotaro chết, tôi chẳng có lý do gì để đến thăm gia đình Shotaro nữa. Rồi qua người bạn, tôi được biết 2 cô em gái đã cho mướn căn nhà và đã dọn đi chỗ khác. Một lần tôi có dịp đi qua, căn nhà của Shotaro, nó đã được đổi chủ và đã cải tạo thành một tiệm bán quần áo ở tầng trệt. Phần sát với mặt đường chính, trên lầu vẫn vậy, không thay đổi, đó là căn phòng riêng của Shotaro ngày xưa có khung cửa sổ mở vào phía sân vườn bên cạnh vẫn y nguyên.

Rồi không lâu sau đó tôi tốt nghiệp và rời tỉnh đó lên Tokyo sinh sống. Khoảng 4 năm sau vợ chồng tôi có dịp trở về chốn xưa. Chúng tôi muốn đến chào gia đình người chị của Shotaro nhưng không có địa chỉ. Chúng tôi tạt vào căn nhà của Shotaro ngày xưa, nghĩ rằng người chủ thuê nhà, bán quần áo sẽ biết gia đình bà chị. Nhưng nó đã được họ bán từ lâu và không còn là tiệm bán quần áo nữa mà là một tiệm bán dụng cụ văn phòng. Người chủ cho tôi biết căn nhà đã được thay đổi chủ nhiều lần nhưng chẳng ai ở đó được lâu hơn 1 năm, người nào cũng nói là nhà có ma! Đã thế việc buôn bán luôn luôn thua lỗ, chính ông ta, dù đã có hàng chục cửa tiệm bán văn phòng phẩm, bất cứ chỗ nào khi ông ta mở ra cũng có lợi nhuận chỉ riêng nơi đây là ông ta thất bại. Còn về vấn đề ma, ban đầu ông ta hoàn toàn không tin, cho rằng là chuyện tưởng tượng, nhưng khi mua lại căn nhà để mở chi nhánh ông ta mới tin là thật. Hiện nay căn phòng trên lầu vẫn để trống, 2 người nhân viên của ông ta không một ai dám ngủ qua đêm chứ đừng nói dọn đến ở luôn, dù không phải trả tiền thuê nhà.

Hai người nhân viên một trai, một gái vẫn còn trẻ tuổi cho biết, khi mới đến, họ nghe hàng xóm nói căn nhà có ma, nhất là căn phòng trên lầu, đã có nhiều người lên đó ngủ bị ma dựng dậy, bóp cổ đuổi họ ra khỏi phòng. Hai nhân viên không tin mà còn mong mỏi được gặp ma một lần xem sao. Ngay đêm hôm mới vào làm việc, người thanh niên ở lại với ý định ngủ lại qua đêm, sau khi ra tiệm ăn bữa cơm tối, anh ta xách chậu đi tắm công cộng rồi trở về nhà trải tấm nệm ngủ (người Nhật bản ngủ trên nền nhà lót chiếu) lên sàn nhà nằm dỗ giấc ngủ. Khoảng giữa đêm, thấy có bàn tay xương xẩu, móng tay dài và sắc bấu vai anh ta rất mạnh. Anh ta thức dậy nhìn thấy một con ma đàn ông mặc quần áo lụng thụng mầu trắng đục đang để tay lên vai anh ta, miệng nhe hàm răng nhọn như răng chó sói nhìn anh ta cười. Người nhân viên sợ đến run người, chưa nói được gì thì con ma bỏ bàn tay ra khỏi vai anh ta, cầm lấy cái thảm ngủ kéo rất mạnh. Chiếc thảm ngủ kéo luôn tấm thân của anh ta ở trên lướt đến đụng vào cái cột ở góc phòng, đau quá anh ta hét lên, con ma nhìn anh ta cười ra vẻ chế nhạo rồi biến mất.

Ngày hôm sau anh ta kể cho cô gái đồng nghiệp nghe, anh ta cũng không quên cho cô ta xem vết sưng trên đầu khi đụng vào cột nhà. Cô đồng nghiệp không những không tin mà còn chế nhạo anh ta nhát nhúa và tưởng tượng quá mà sinh ra mộng du. Cô ta còn nói, ngay đêm đó sẽ ngủ lại để chứng minh lời giải thích của mình. Nhưng ngay buổi trưa, sau khi ăn xong hộp cơm (bento), cô ta lên trên phòng nằm nghỉ ngơi. Đúng lúc cô ta riu riu, chưa thực sự đi vào giấc ngủ, con ma hiện ra, cũng áo trắng đục, cũng những ngón tay móng sắc nhọn, xương xẩu, chẳng nói chẳng rằng, con ma giơ thẳng tay tát cho cô ta một cái như búa bổ vào mặt. Lúc này thì cô ta tin có ma và quá sợ rồi, miệng lắp bắp không nói, không la được một câu, nằm gục xuống nền chiếu run như cầy sấy, con ma giơ tay định tát cho cô ta một cái nữa. Đúng lúc đó người bạn thanh niên ở dưới nhà nghe thấy tiếng động mạnh, anh ta đoán là có chuyện lộn xộn cho cô gái trên lầu, bỏ cửa hàng anh ta chạy vội lên lầu miệng vừa la hét vừa hỏi cô gái. Không biết có phải vì tiếng la hét của anh thanh niên làm cho con ma sợ hãi mà biến mất hay không? nhưng nhờ đó mà cô gái thoát nạn. Từ đó 2 người nhân viên không dám bén mảng lên trên lầu, nhất là vào căn phòng lúc ban đêm nữa .

Nghe ông chủ tiệm nói, tôi nhớ lại lời bà chị gái của Shotaro nói với tôi về tiếng khóc than, tiếng la hét cãi nhau của Shotaro vọng ra hàng đêm. Tôi cảm thấy ơn ớn, tôi tin rằng trong cái thế giới được cấu tạo bởi vật chất có trọng lượng này vẫn có cái gì đó bước ra khỏi cái chân lý của khoa học hữu hình để vào cái mông lung, khó hiểu của thế giới siêu linh, đó là thế giới của ma quái. Những hiện tượng tôi vừa kể về Shotaro, chỉ là những chuyện tôi nghe từ người khác kể. Nhưng những sự kiện mà tôi kể sau đây về ngườì bạn thứ hai của tôi ở Nhật bản, là những hiện tượng chính cá nhân tôi đã gặp.

***

Người bạn thứ hai, tên là Tari, sinh viên gốc Thái Lan, du học Nhật bản như tôi, học trên tôi một năm. Qua lời tâm sự tôi biết gia đình anh ta cũng không khá gỉả lắm, một gia đình theo Phật giáo rất thuần thành ở Bangkok. Anh ta có 2 người em ruột đã thành vị sư coi sóc một ngôi chùa Phật giáo ở miền Bắc Thái Lan. Tôi và anh ta rất thân, có lẽ vì hoàn cảnh cùng ra đi từ nước nhược tiểu, lại rất gần nhau về văn hoá lịch sử của nhóm quốc gia thuộc khối Đông Nam Á châu mà ra. Tari cũng rất thân với Shotaro và đã nhiều lần cùng với tôi đến nhà Shotaro ăn cơm và ngủ lại. Gần như bất cứ cuộc đi chơi nào của nhóm bạn như tắm biển, khiêu vũ, uống rượu tại các quán bar… khi nào có tôi và Shotaro là chắc chắn có Tari.

Tari nấu ăn rất giỏi đã thế lại rất thích nấu cho bạn bè ăn, chính vì thế phòng trọ của tôi khá rộng, có chỗ nấu nướng lại gần đại học cho nên Tari được rất nhiều dịp để trổ tài cho bạn bè thưởng thức các món ăn Thái Lan rất cay nhưng lại làm mê mẩn người ăn. Nhất là vào những ngày nghỉ cuối tuần hay dịp nghỉ hè, nghỉ xuân, gần như ngày nào chúng tôi cũng được Tari khoản đãi những món ăn độc đáo của quê hương anh ta.

Đại học của tôi có một cái hồ bơi khá lớn. Dù ở miền nam Nhật bản, khí hậu khá ấm áp nhưng chỉ duy nhất vào mùa hè (khoảng tháng 6 đến tháng 9), nhà trường mới bơm nước vào cho sinh viên vào tắm tư do mà thôi. Mặc dầu mở cửa tự do cho sinh viên vào tắm nhưng cũng chẳng có mấy người ham thích, thỉnh thoảng mới có 3, 4 sinh viên đến tắm hay có dịp đùa dỡn với nhau mà thôi. Lý do rất dễ hiểu, Nhật bản có quá nhiều bờ biển, chỉ cần đi 5,10 phút xe đạp hay một cuốc xe bus là có thể đến bãi biển rộng rãi lại gần gũi với thiên nhiên, cần gì vào hồ tắm cho chật chội?!

Phòng trọ của tôi rất gần đại học cho nên nhóm bạn của chúng tôi nhiều khi đi chơi về khuya hay ăn nhậu nhem nhuốc, không muốn tốn tiền đi tắm công cộng, chúng tôi chạy vào hồ nhẩy xuống vùng vẫy một hồi cho sạch sẽ rồi về nhà. Vào mùa hè nóng bức, muốn giải cái nóng bức, chúng tôi cũng thường rủ nhau vào đó bơi lội đến chiều tối mới về. Thật ra đến đó bơi lội chỉ là cái cớ mà thôi, mục đích vẫn là khỏi tốn tiền vì tắm công cộng, còn có chỗ trải khăn trên bờ đá ven hồ nằm phơi nắng và nói chuyện tầm phào với nhau.

Hôm đó, có lẽ vào ngày giữa tuần của tháng 7 mùa hè, lúc khoảng 6 hay 7 giờ tối, mặt trời vẫn còn rạng rỡ trên lùm cây, tôi thu gom sách vở, dụng cụ trong phòng thí nghiệm ra về, đang lững thững bước ra khỏi cổng trường để mắt ngắm nghía những bông hoa dại xen kẽ, len lỏi chui ra từ những lùm cây bên con đường dẫn về nhà trọ. Thình lình tôi thấy Tari, anh ta cũng có vẻ nhàn nhã đi ngược lại từ hướng đối diện. Sự việc chẳng có gì lạ lùng, vì tôi và anh ta gặp nhau rất thường, từ xa tôi đã nở nụ cười thân thiện với anh ta, nhưng lần này tôi có cảm tưởng Tari hôm nay có cái gì khang khác. Anh ta nhìn tôi mà đôi mắt như mơ màng, không chú ý, nét mặt như có gì u ám khó hiểu, mất hẳn đi vẻ vồn vã, vui mừng cố hữu mỗi khi chúng tôi gặp dù ở sân trường hay bất cứ đâu. Mặc dù có tí lạ lùng với sự khác thường, nhưng cũng chẳng để tâm, từ xa, tôi cười với anh ta, hất đầu thân thiện hỏi:

- Tari, có gì lạ không? đi đâu vậy, nếu thích đến chỗ tôi uống cà phê.

Tari nhìn tôi, dáng điệu có vẻ gì khó hiểu, ánh mắt anh ta rất kỳ lạ, như mơ màng không chú ý đế lời chào hỏi của tôi. Linh cảm cho tôi biết anh ta đang có gì bất bình thường, không vui nên mất đi vẻ vồn vã thường nhật mỗi khi gặp tôi. Với tí chút ngạc nhiên nhưng chỉ thoáng qua khi tôi nghĩ anh ta không vui vì việc gì đó trong trường học hay từ gia đình bên Thái lan gửi sang. Đưa tay vỗ nhẹ vào vai Tari, tôi an ủi:

- Thôi dẹp chuyện buồn đi, tí nữa nhớ đến phòng tôi nhe.

Tari nhíu cặp mắt nhìn tôi khó hiểu với một chút im lặng rồi anh ta nói với tôi gần như không mang theo một tí cảm xúc, âm thanh không phải buồn chán mà nó có cảm giác lạnh lùng, vô cảm:

- Anh về nhà cất cặp sách đi rồi ra hồ bơi gặp tôi nhe.

Nói xong anh ta lách sang một bên bước qua mặt tôi không thèm ngoái lại và đi thẳng. Tôi ngẩn ngơ nhìn theo anh ta với cảm giác khó hiểu vì sự lạnh lùng rất khác thường của anh ta, nhưng tôi chợt nghĩ, tự nói với mình, có gì quan trọng đâu mà tôi phải chú ý đến anh ta quá mức? Rồi tôi bình thản quay về hướng của mình, thủng thẳng về nhà trọ. Mở cửa bước vào căn phòng, tôi bỏ chiếc cặp sách vở vào một góc phòng, vươn vai nằm ngửa, dạng chân ngay trên nền chiếu hướng mắt nhìn lên trần nhà suy nghĩ vẩn vơ. Vẻ lạ lùng của Tari trở lại trong trí nhớ, cho tôi cảm giác khó hiểu bởi vì chưa bao giờ tôi thấy Tari có hành động và thái độ kỳ lạ đó với tôi. Với sự thắc mắc về thái độ khác thường của Tari làm tôi suy nghĩ và muốn ra hồ bơi để gặp và hỏi cho rõ nguyên nhân. Nghĩ như vậy, tôi thu dọn tí chút cho gọn ghẽ căn phòng rồi định mở cửa ra khỏi phòng, ngay lúc đó một người bạn khác cũng vừa đến tìm tôi, tôi cho người bạn biết là Tari đang hẹn và chờ tôi ở hồ bơi. Dĩ nhiên anh bạn cũng đi theo tôi bởi vì anh ta cũng là bạn trong nhóm và biết rất kỹ về Tari.

Hai chúng tôi đến hồ bơi, một sự kiện làm chúng tôi không thể tin được, khi nhìn thấy xác Tari đang nổi lềnh bềnh trên mặt nước giữa hồ. Tôi không thể nhầm lẫn được dù cái xác mặc quần tắm nhưng rõ ràng là Tari bập bồng nổi giữa mặt hồ. Tôi và anh bạn sợ quá, luống cuống một hồi, anh bạn đang định cởi quần áo nhẩy xuống hồ. Nhưng ngay lúc đó hình ảnh gặp Tari kỳ lạ vừa mới đây, cách nhau chỉ khoảng hơn 30 phút đã làm tôi lạ lùng, khó hiểu, tôi ngăn người bạn lại và nói với anh ta là với khoảng thời gian ngắn đó, Tari không có thể về nhà, thay quần áo và cũng không thể đến hồ bơi được. Đã thế tôi còn thấy anh ta đi về hướng đối diện, rời xa cổng trường, làm sao có chuyện anh ta trở lại trường nhanh và chết như vậy được. Tất cả thắc mắc hiện lên trong suy nghĩ của tôi, cuối cùng người bạn Nhật chạy đến cái hộp đìện thoại công cộng không xa gọi báo tin cho cảnh sát.

Không quá 10 phút sau, đã nghe thấy tiếng bi bo của xe cảnh sát cùng với xe cứu thương đến vớt xác Tari và chở đến bệnh viện để khám nghiệm và điều tra. Tôi và anh bạn dù là kẻ báo tin nhưng vẫn bị cảnh sát rất lịch sự kéo lên xe với lý do cần nhân chứng, nhưng trong mắt họ tràn đầy sự nghi ngờ chúng tôi liên quan đến cái chết của Tari… Họ chở chúng tôi về trung tâm, cả đêm hôm đó tôi và anh bạn bị hỏi đi hỏi lại rất kỹ, nhất là khi tôi khai đã chính mắt nhìn thấy Tari chỉ không hơn 30 phút trước khi thấy Tari chết trong hồ bơi. Tất cả mọi người cũng đồng ý với tôi có sự vô lý với khoảng thời gian để Tari về nhà rồi hẹn tôi ra hồ bơi. Cũng chính sự vô lý đó, cảnh sát đã nhìn tôi với ánh mắt không bình thường, đầy vẻ nghi ngờ. Chúng tôi cũng phải nói với cảnh sát về tất cả bạn bè, người quen biết có liên hệ đến tôi và Tari. Cuộc điều tra, hỏi han chúng tôi kéo dài cho mãi gần sáng chúng tôi mới được thả về, bụng đói meo vì chưa ai ăn cơm tối.

Gần trưa hôm sau, khi tôi đang lờ đờ làm việc ở phòng thí nghiệm thì 2 người cảnh sát đến, họ kéo tôi đến một phòng riêng biệt. Họ cho tôi biết xác Tari đã được khám nghiệm, kết quả cho biết anh ta đã chết từ tối hôm kia nghĩa là trước một ngày lúc tôi và người bạn tìm thấy anh ta nổi lên trong hồ bơi. Họ lại xoắn vào hỏi tôi có chắc chắn tôi đã gặp anh ta trên đường đi hay không, họ yêu cầu tôi mô tả rất kỹ dáng điệu, hình dạng của Tari, người tôi đã gặp trên đường về nhà. Họ không tin tôi đã gặp Tari mà gặp một người nào khác rồi vì mệt mỏi sau giờ làm việc cho nên tôi đã nhìn gà hoá quốc!

Khổ thật! Tôi nói với họ tất cả và rất chính xác, tôi cho họ biết dù trong bóng tối tôi cũng nhận rõ Tari được vì tôi đã gặp anh ta, thân cận anh ta nhiều năm rồi, không có chuyện tôi lầm lẫn. Hai người cảnh sát im lặng nghe, lúc chia tay họ còn cười chế nhạo tôi bằng câu đùa giỡn:

- Không lẽ ông nhìn thấy ma? Xin ông cố gắng nhớ lại rất kỹ, bất cứ khi nào nhớ thêm được điều gì mới, xin báo cho chúng tôi biết.

Tôi cũng chẳng cần đính chính với họ thêm nữa bởi vì với họ đúng là chuyện hoang đường, nếu tôi cố nói với họ, có lẽ tôi sẽ biến thành một tên u mê, nhiều tưởng tượng. Ngay như người bạn đi với tôi ra hồ bơi thấy xác Tari, anh ta cũng có tí nghi ngờ về sự chính xác của nhãn quan của tôi, anh ta không nói ra, sợ làm buồn tôi đó mà thôi. Dù vậy nhưng trong lòng tôi đã dấy lên sự sợ hãi, có cái gì đó mù mờ của ma quái, bóng tối ban đêm đã làm cho tôi có cảm giác ghê ghê khi phải đi ra ngoài một mình. Tôi chợt nhớ Tari theo Phật giáo như tôi, sự cúng bái vẫn là điều mà cha mẹ tôi vẫn làm mỗi khi có giỗ kỵ. Nghĩ như vậy nên ngay hôm sau, thứ bẩy tôi lấy xe bus đến một tiệm tạp hoá của người Tầu trong tỉnh, mua một bó hương vài xấp giấy tiền âm phủ cùng vài thứ lỉnh kỉnh như bố mẹ tôi thường làm trong những lần cúng vái.

Ngay buổi chiều hôm đó, tôi rủ thêm 2 người bạn Nhật bản cùng với tôi đến hồ bơi. với một đĩa ngũ quả, vài chiếc bánh đậu xanh cùng với bó giấy tiền, một cây nến. Tôi đốt tất cả bó hương, đem cắm khắp mọi nơi quanh hồ bơi rồi kính cẩn quỳ lạy, miệng lẩm bẩm lời cám ơn Tari về tình thân thương, chân thành của người bạn mà anh đã dành cho tôi lúc còn sống, chân thành chúc linh hồn anh sớm siêu thoát về cõi yên bình thanh thản. Hai người bạn Nhật họ im lặng nhìn tôi, tôn trọng sự thành kính của tôi trong lúc quỳ lạy khấn vái. Sau cùng họ cũng kính cẩn chắp tay vái theo tôi vài cái. Chờ cho những cây hương đã tàn, chúng tôi đem giấy tiền ra đốt sau đó ngồi ăn trái cây, nói chuyện khá lâu chung quanh cái chết kỳ lạ của Tari trước khi ra về.

Chiều tối hôm sau, chủ nhật. Tôi đang ngồi buồn bã trong căn phòng trọ, đưa mắt bâng quơ nhìn qua khung cửa sổ theo dõi vài con chim sẻ chuyền nhẩy trên mái nhà bên cạnh. Tôi nhớ đến Tari, đến những người bạn thân thiết trong đời tôi đã ra đi vĩnh viễn. Mỗi người họ đến với tôi trong một hoàn cảnh khác nhau, rồi bị một đưa đẩy nào đó, họ vĩnh viễn xa rời để lại trong ký ức buồn bã của tôi những hoài niệm về họ. Trong nỗi buồn nhớ thương bạn bè đó, tôi cũng chẳng thèm bật đèn dù bên ngoài trời đang mưa và tối đen như mực. Vài tiếng gõ cửa đã kéo tôi ra khỏi nỗi suy tư không vui đó. Hai người bạn Nhật bản hôm qua, họ hiện ra với một tí lạ lùng vì thấy tôi đang thờ thẫn ngồi trong bóng đêm, chỉ vài phút sau họ đã nhìn thấy nỗi buồn đang tràn lan trên khuôn mặt của tôi. Khi biết tôi chưa ăn cơm tối, họ rủ tôi lên phố đến một nhà hàng đặc sản mà nhóm bạn chúng tôi vẫn thường làm nơi tổ chức sinh nhật của mọi người trong nhóm.

Chúng tôi vào quán ăn, dĩ nhiên được tiếp đón rất ân cần của người chủ nhà hàng quen biết. Sau khi sai người phục vụ đem món ăn cho chúng tôi, lại gặp lúc quán thưa khách, người chủ quán đem lon bia ghé ngồi xuống cùng trò chuyện với chúng tôi. Sau một lúc đề cập về vài vụ lộn xộn chính trị trong quốc hội đang làm ồn ào trên báo chí. Người chủ quán, thình lình nhớ ra chuyện gì, ông vỗ nhẹ lên vai một người bạn của tôi và hỏi:

- Các ông còn nhớ thằng Tari người Thái lan không? Mới tối hôm qua nó đến đây ăn uống khướt mướt đến khuya mới chịu về.

Cả ba chúng tôi ngẩn ngơ, nhìn vẻ bình thản, tự nhiên của ông ta, chúng tôi không một ai lại nghĩ ông ta đang đùa giỡn. Đưa mắt nhìn nhau, chúng tôi chưa kịp nói gì thì ông ta tiếp:

- Kỳ lắm! Lúc hắn về được một lúc thì đến giờ tiệm đóng cửa. Một lạ lùng mà chính tôi cũng không biết là thật hay giả. Lúc kiểm điểm lại tiền trong hộp, tôi thấy mấy tờ giấy bổi mầu đỏ, hình vẽ loằn ngoằn như lá bùa vậy, chưa bao giờ tôi nhìn thấy và tại sao nó lại có trong hộp thu tiền của tôi.

Nói xong ông ta đứng dậy với tay lên cái kệ trên góc nhà, đưa cho chúng tôi vài tờ giấy bổi mầu đỏ có những hình vẽ, y hệt như ông ta đã mô tả. Nó cũng đúng là những tờ giấy tiền âm phủ mà tôi đã mua ở tiệm tạp hoá của người Tầu vào buổi gần trưa ngày hôm qua, cũng ngay buổi chiều hôm qua, tôi và 2 người bạn đã đến cúng vái ở hồ bơi nhưng tất cả những tờ giấy tiền âm phủ đó đã được đốt không một tờ nào sai sót, Tari cũng đã chết được 4 ngày. Tất cả là hoang đường sao? Nhưng sự thật rành rành ra trước mắt không những của chính tôi mà còn của 2 người bạn Nhật nữa.

Hai người bạn Nhật giương mắt nhìn tôi rồi lại nhìn vào mấy tờ tiền âm phủ, họ ngẩn ngơ không nói được câu nào và hình như thân mình họ cũng hơi run run vì sợ hãi. Còn tôi thì cũng chẳng khá gì hơn, chẳng còn nghi ngờ gì nữa, một sự thật quá hiển nhiên, Tari đã hiện về gặp tôi trên đường đi, mách bảo tôi đến hồ bơi để tìm thấy xác của anh ta và cũng chính Tari đã hiện về đến quán này ăn uống no say rồi dùng tiền âm phủ mà tôi và 2 người bạn Nhật bản đã cúng và đốt cho anh để trả tiền ăn nhậu cho người chủ quán .

Cuối cùng lấy lại được bình thản, tôi kể cho ông chủ quán nghe rất kỹ về cái chết của Tari và những sự kiện ma quái đã xẩy ra vừa qua. Ông chủ quán nghe tôi kể xong, cũng phát run lên vì sợ.

Khoảng hơn một tuần lễ sau, cơ quan điều tra cho biết Tari đã bị vọp bẻ khi bơi ở hồ nước mà chết đuối, không gì mù mờ hay liên quan đến tự vẫn cả, dĩ nhiên sự vô can của tôi cũng được xác nhận. Rồi sau đó khoảng một tuần lễ bố mẹ và vợ chồng người em của Tari sang Nhật, họ cho biết sẽ nhờ chùa Phật giáo ở Nhật lo việc ma chay rồi hoả thiêu ở Nhật. Vì phong tục hay vì niềm tin nào đó họ cho biết hũ tro cốt của Tari sẽ để ở chùa Nhật đủ 3 năm, sau đó họ mới làm lễ gửi về Tháilan.

Sau đó hơn 3 tháng trời, chẳng có gì xẩy ra, cuộc sống và học của tôi đã trở lại bình thường. Cái chết của Tari hình như cũng bị lãng quên hay ít nhất nhóm bạn chúng tôi cũng chẳng còn ai nhắc tới chuyện buồn bã đó nữa. Một hôm, người bạn có gia đình sống ở thị xã nhỏ ven biển, nơi mà Shotaro đã thường lái xe chở chúng tôi đến đó tắm biển, ăn uống vào những ngày hè nóng bức. Cũng chính là nơi Shotaro quen và yêu Gygong cô gái Đại hàn, cuộc tình lãng mạn, sâu đắm nhưng chứa đầy bi thương đó đã mở đầu cho bao nhiêu bi đát dồn dập đổ đến cho gia đình Shotaro. Người bạn đó đã có nhã ý mời chúng tôi đến tham dự lễ cưới của người em trai, tổ chức vào ngày chủ nhật. Dù một người bạn có xe autô, nhưng chúng tôi quyết định đi xe bus vì biết chắc chắn việc uống rượu phải có nếu mang autô theo rất phiền phức với luật pháp mà lại còn bị mất vui nữa.

Đúng như vậy, đám cưới khởi đầu từ buổi trưa, kéo đến khoảng 9 giờ tối mới xong. Chúng tôi từ giả gia đình người bạn rồi thủng thẳng đi ra đường liên tỉnh chờ xe bus để trở về lại thành phố. Trong lúc đang đứng chờ xe, bất thình lình có một chiếc xe microbus tư nhân chạy chầm chậm rồi dừng xe ngay trước mặt chúng tôi. Trên xe có 3 người, một thanh niên cầm lái, ngồi bên cạnh là một cô gái. Một thanh niên khác ngồi trên chiếc ghế dài ở phía sau. Xe vừa dừng lại, người thanh niên ở phiá sau, kéo cánh cửa bên hông ra. Nhìn chúng tôi rất thân thiện, có vẻ quen thuộc, anh ta nói:

- Chào tất cả mọi người.

Chẳng cần nhìn vẻ lạ lùng của chúng tôi, anh ta vui vẻ nói tiếp:

- Lên xe đi. Các anh quên chúng tôi rồi sao?

Chúng tôi đưa mắt nhìn nhau, nghĩ rằng đây chắc là bạn của ai đó trong nhóm, nhưng tất cả đều ngơ ngác đưa mắt cho nhau như dò hỏi. Người thanh niên, vẫn cười thân thiện, anh ta nói tiếp:

- Không phài là Viên san đó sao? (San, trong tiếng Nhật có nghĩa như tiếng Mr của Anh ngữ)

Rồi anh ta nói ra tất cả tên từng người của chúng tôi một cách rất thân thìện, không những thế anh ta còn nói đến những đặc điểm của từng người nữa. Chẳng hạn với tôi anh nói tên khu nhà tôi ở, là sinh viên VN đến đây du học đã nhiều năm…Sau vài câu trao đổi sơ sài, thấy chúng tôi còn thắc mắc anh ta giải thích:

- Chúng tôi là người cùng học đại học với các anh, nhưng vì khác phân khoa nên các anh không quen biết đó mà thôi.

Với câu nói đó. chúng tôi chẳng có lý do gì để không lên xe anh ta cả. Vào trong xe cả ba người bọn họ nói chuyện rất cởi mở thân tình với với chúng tôi. Điều làm chúng tôi rất ngạc nhiên là cả ba người hình như biết rất rõ về chúng tôi, từ chỗ ở, đến ngành học và đôi khi họ còn nói đến cá tánh từng người của chúng tôi nữa. Trong khi đó chúng tôi hoàn toàn mù tịt về họ. Rồi xe vào thành phố, họ hỏi chúng tôi muốn đi đâu, họ sẽ chở đến tận nơi. Chúng tôi đưa mắt nhìn nhau ra vẻ ngại ngần không muốn làm phiền họ quá nhiều, chỉ nhờ họ chở cả nhóm đến nhà tôi. Chúng tôi chưa kịp nói rõ đường đi cho họ, thì người lái xe đã mỉm cười quay lại đằng sau nói với chúng tôi:

- Nhà Viên san, tôi biết rất rõ, ở gần cổng đại học phải không? Được rồi tôi sẽ chở các anh đến đó.

Phải nói không riêng gì tôi mà những người bạn của tôi cũng ngạc nhiên vì tại sao họ biết rất rõ về chỗ ở của tôi như vậy?! Chiếc xe chạy bon bon, không một tí gì lạ lùng đường xá, họ chạy đến nhà trọ của tôi rất trơn tru, thành thạo như đến chính nhà của họ vậy. Chiếc xe chạy chầm chậm dừng sát vào hàng hiên căn nhà trọ. Chúng tôi tự mở cửa xe, mỗi người chúng tôi trước khi bước xuống xe vừa nói lời cám ơn vừa vỗ vào vào vai hay tay của hai người thanh niên, tỏ ra cảm động với thân tình của họ. Khi cả bọn đã bước xuống khỏi xe, chiếc cửa bên hông chưa đóng. Chúng tôi đều đưa mắt nhìn vào ba người trên xe để từ giã họ thêm lần nữa trước khi chiếc xe chuyển bánh. Nhưng ngay lúc đó, tất cả chúng tôi đều rợn da gà, chết xững, một tia điện rất lạnh chạy suốt xương sống đến đôi chân, toàn thân chúng tôi run lên vì sợ hãi đổ ập lên chúng tôi!

Trên xe, 2 người ngồi phía trước họ quay lại nhìn chúng tôi mỉm cười, họ chính là Shotaro người lái xe, khuôn mặt anh ta xanh mướt, hơi sưng to, đúng là khuôn mặt của người bị chết vì thắt cổ. Bên cạnh không ai khác là Gygong, người thiếu nữ Đại hàn, người yêu tuyệt vời muôn thuở của Shotaro, làn da cô ta trắng đục, mái tóc ướt lẹp nhẹp lòa xòa che phủ lấy khuôn mặt tròn bầu bĩnh, Gygong đang hiện diện một người bị chết trôi! Còn người ngồi phiá sau, người ngồi sát bên chúng tôi trong suốt cuốc xe, làm sao chúng tôi quên được nước da ngăm ngăm đen, bụng xình to, mái tóc ngắn lưa thưa không đủ dài để xõa xuống cái trán hơi thấp, quần áo ướt xũng như một người vừa chui lên từ hồ nước lên, đúng là Tari, Tari người bạn mới chết đuối trong hồ bơi của đại học hơn 3 tháng trước cũng là người đã làm tôi bực mình, khốn khổ với cơ quan điều tra về cái chết của anh ta. Trong khi chúng tôi sợ đến nỗi muốn xỉu, đứng không vững thì ba hồn ma nhìn chúng tôi tiếp tục mỉm cười trong khi chiếc xe từ từ lăn bánh dù cửa kéo bên hông xe vẫn chưa đóng lại.

Chuyện hồn ma của 3 người bạn hiện hình trêu chọc chúng tôi đã được khá nhiều sinh viên và dân cư chung quanh nhà trọ của tôi nói đến. Nhưng hình như mọi người vẫn có tí nghi ngờ, có người nói chúng tôi cố ý thêu dệt chuyện ma quái cho vui. Nhưng suy nghĩ kỹ, sự nghi ngờ của họ cũng có lý mà thôi, vì sau đó khá lâu mà mọi chuyện lại im rơ, bình thản chẳng thấy dấu vết gì của ma quái như chúng tôi kể với họ cả.

Căn nhà trọ của tôi khá xa trạm xe bus. Từ trạm xe đến nhà trọ cũng khoảng 1 cây số, phải đi qua những con đường nhỏ, dù hai bên đuờng nhà cửa san sát nhau, nhưng là những căn nhà không hoạt động thương mại nên khu vực cũng khá vắng vẻ, yên tĩnh. Nhất là về ban đêm khu vực rất im ắng, lâu lâu mới một vài người hay vài chiếc xe đi qua. Một hôm tôi có việc đi xa, nên về nhà rất khuya. Đang lầm lũi đi trên những đoạn đường vắng lặng hướng về nhà trọ, không hiểu sao, tôi có linh cảm như thoáng nghe tiếng chân hay thoáng nhìn thấy bóng của ai đang đi theo tôi, khi tôi đi chậm lại hay để ý lắng tai nghe, tôi có cảm tưởng người đi đằng sau tôi họ cũng biết và họ cũng dừng lại! Đã mấy lần tôi cố ý bất chợt quay nhanh lại phía sau, nhưng cũng chỉ là bóng tối, cái bóng tối không bình thường, nó đang có vẻ che dấu cái gì đó làm cho tôi có cảm giác sờ sợ. Cuối cùng tôi cũng về đến gần nhà trọ, cảm thấy yên lòng hơn nên tôi mạnh bạo đứng hẳn lại, quay nhìn rất kỹ về phía sau, trong bóng tối, hình như tôi thoáng nhìn thấy một bóng trắng lung linh thập thò từ góc đường xa xa. Tôi để mắt nhìn rất kỹ, nhưng cũng chẳng có gì ngoài ánh đèn loe loét của đèn đường, yên tâm, tôi nghĩ rằng đó chỉ là sự lay động của tàng cây dưới ánh đèn đường mù mờ đã làm cho tôi ngộ nhận mà thôi.

Yên lòng tôi leo lên cầu thang mở cửa vào căn phòng trọ, bỏ chiếc cặp lên cái bàn thấp chân ở góc phòng, sau khi đánh răng rửa mặt, thay quần áo xong. Tôi sửa soạn kéo chiếc đệm ngủ ra, trải trên nền chiếu, thình lình có vài tiếng gõ cửa rất nhẹ. Dù rất nhẹ nhưng tôi cũng cảm nhận được rất rõ âm thanh từ cánh cửa của chính phòng mình vọng vào. Chắc lại một ai đó, cùng sống trong dẫy nhà trọ thiếu thốn cái gì cần thiết hay có vấn đề gì khó khăn nên làm phiền mình đây ? với chút bực bội, không vui tôi không mở cửa, cất tiếng hỏi:

- Ai đấy?

Tiếng gõ cửa im lại tí chút, như biết tôi không mở cửa, tiếng gõ lại tiếp tục nhưng to hơn, chẳng cần dấu sự bực mình, tôi gắt lên to hơn:

- Về đi, đêm khuya rồi, xin đừng làm phiền tôi nữa!

Nói xong tôi nghĩ là quá đủ để kẻ làm phiền mình thông hiểu và chấm dứt, nhưng ngược lại, tiếng gõ cửa như muốn trêu tức tôi, nó mạnh hơn, dồn dập hơn. Đã đến lúc tôi không còn lịch sự được, tôi bực bội đứng dậy bước ra gần cánh cửa phòng, đưa tay vặn chiếc móc cửa nhưng chỉ hé mở, đủ để nhìn xem ai là kẻ đáng ghét làm phiền mình giữ đêm khuya và cũng sẵn sàng đóng ập cửa khi cần thiết. Nhưng bên ngoài cánh cửa, hoàn toàn im lặng và trống trơn, ngạc nhiên rồi với tí lưỡng lự, tôi mở to cánh cửa, ngoái đầu ra bên ngoài. Chẳng có gì dưới ánh đèn khá sáng của dẫy hành lang, bóng đêm vẫn tịch mịch, chẳng có ai hay dấu vết gì chứng tỏ là có người vừa làm phiền hay chọc phá tôi. Bực bội tôi đóng cánh cửa rồi quay vào.

Ngay lúc đó, mặt tôi tái xanh, khắp thân mình nổi gai ốc kèm theo cảm giác lạnh buốt chạy dọc theo xương sống, đôi chân tôi lập cập làm cho tôi không đứng vững, phải ngồi bệt xuống nền nhà. Trước mắt tôi, ngồi ngay giữa căn phòng, chỗ mà tôi còn để vương vãi chiếc đệm ngủ, Tari đang ngồi, hướng đôi mắt buồn buồn nhưng có gì xoi mói đang nhìn tôi. Sợ hãi bao phủ lấy tôi, làm cho tôi chỉ giương mắt nhìn anh ta, không nói gì, thật ra dù có muốn nói nhưng chiếc lưỡi và hàm răng đã cứng đơ, chúng không còn làm theo ý muốn của tôi nữa. Hình như nhìn thấy nỗi sợ hãi của tôi, hồn ma Tari nói trong vô cảm :

- Tôi đến nhờ anh gíúp tôi một việc đây, tại sao anh sợ tôi đến thế?

Có lẽ lời nói của hồn ma đã giúp tôi tí chút bình tĩnh, tôi cố gắng phát âm:

- Ta...Ta... ri...Tari, sao... sao anh cứ... cứ... theo về... về gây... gây rắc.. rắc rối... rối... cho tôi... tôi... mãi... thế... ?

Tôi muốn nói nhiều hơn, nói đến tình thân lâu dài và chân thành của tôi và anh ta vừa qua, không lẽ anh ta vô tình đến nỗi muốn tìm tôi gây phiền nhiễu nữa hay sao? Nhưng làm sao tôi có thể nói được khi thân thể tôi vẫn còn run và chiếc lưỡi vẫn cứng đơ, chưa muốn làm theo ý muốn của tôi!

Hồn ma lắc nhẹ đầu có vẻ như muốn từ chối lời trách cứ của tôi, rồi chẳng cần chú ý đến cảm giác sợ hãi của tôi hồn ma nói tiếp:

- Tôi hiện về đây, nhờ anh liên hệ với gia đình tôi hãy mau chóng đem hũ tro cốt của tôi về Thái lan, tôi không muốn làm con ma vất vưởng nơi xứ người xa xôi buồn tẻ này nữa. Xin anh hãy vì tình thân của chúng ta mà cố gắng giúp tôi càng mau càng tốt.

Nói xong, hồn ma như cảm nhận ý của mình đã được tôi đã thông hiểu, hồn ma hơi lắc nhẹ, mù mờ như làn mây rồi dần dần biến mất. Tôi cũng dần dần trở lại bình tĩnh nhưng vẫn ngồi im lặng trên sàn nhà đưa ánh mắt bâng qươ vẫn chưa hết bàng hoàng hướng về chỗ ngồi của hồn ma với một tâm trạng buồn vui khó tả.

Rồi mấy ngày sau khi đã lấy lại được cân bằng, nhìn lại chính mình với nỗi buồn xa xứ, với biết bao nhiêu thiếu thốn của quê hương, chỉ nơi đó mình mới tìm thấy ánh mắt thân cận của đồng bào, món ăn quen thuộc và cũng chỉ nơi đó chất chứa những hoài niệm cuộc đời từ trẻ thơ cho đến lúc trưởng thành. Từ cái cảm giác đó, tôi đã nhìn thấy rất rõ nỗi buồn của hồn ma Tari và hiểu rằng dù người ta chết đi vẫn cần có những ước mơ, những kỷ niệm… mang theo. Hôm sau tôi đến văn phòng đại học hỏi số điện thoại của gia đình Tari, nhờ một gia đình Thái lan định cư ở Nhật nhờ họ điện thoại trực tiếp với gia đình Tari, kể cho họ nghe rất kỹ về Tari và những chuyện xẩy ra sau khi anh ta bị tai nạn ở hồ bơi mà chết. Rồi tôi nhờ họ dùng ngôn ngữ quê hương của chính họ nói rất rõ với gia đình Tari vể ước muốn của anh ta muốn được trở về Thailan, quê hương của anh càng sớm càng tốt.

Chẳng lâu sau đó tôi đã được gia đình Tari đến thăm, họ cám ơn tôi về những gì tôi đã làm cho thân nhân họ cũng như tình bạn sâu đậm giữa tôi và Tari. Cũng từ đó và có lẽ mãi mãi về sau tôi và nhóm bạn chẳng có dịp để gặp lại hồn ma của Tari nữa. Chúng tôi đoán rằng linh hồn Tari đã được mang về quê hương của anh ta, nơi đó anh đang được yên bình, nơi mà anh sinh ra và mang đầy kỷ niệm.

Lưu An Vũ ngọc Ruẩn
(Switzerland, Zuerich, 06. 2010)
 (Theo lời kể của GĐ người bạn và chứng nghiệm của chính mình)

Tâm hồn cao thượng bên trong một đứa trẻ nghèo

  

Tâm hồn cao thượng
bên trong một đứa trẻ nghèo

https://www.chungta.com/nd/tu-lieu-tra-cuu/tam-hon-cao-thuong-ben-trong-mot-dua-tre-ngheo.html

Đây là câu chuyện có thật do chính người trong cuộc thuật lại. Ông là một giáo viên người Anh. Mỗi khi kể, ông thường không cầm được nước mắt, xúc động nghẹn ngào.


Nhà tôi ở một con đường giữa lòng Thủ đô Luân Đôn. Một hôm, tôi vừa ra khỏi cửa thì gặp một cậu bé chừng mười hai, mười ba tuổi ăn mặt tồi tàn, rách rưới; mặt mũi gầy gò, xanh xao; chìa những bao diêm khẩn khoản mời tôi mua giúp một bao.

Tôi mở ví tiền và chép miệng:

- Rất tiếc là tôi không có xu lẻ.

- Thưa ông, không sao ạ. Ông cứ đưa cho cháu một đồng tiền vàng. Cháu chỉ chạy loáng một lát đến hiệu buôn để đổi, rồi hoàn lại cho ông tiền lẻ còn thừa.

- Tôi chăm chú nhìn cậu bé và lưỡng lự :

- Thật chứ?

- Thưa ông, thật ạ. Cháu không phải là một đứa dối trá. Nét mặt của cậu bé trông rất cương trực và tự hào tới mức làm tôi tin và giao ngay cho cậu một đồng tiền vàng.

Nhưng năm phút, mười phút, rồi mười lăm phút trôi qua mà vẫn không thấy cậu trở lại. Tôi bắt đầu nghi ngờ cậu bé. Nửa giờ sau, chờ mất công, tôi lững thững tiếp tục cuộc dạo chơi và tự nhủ: «Cần rút kinh nghiệm, không nên tin vào bọn trẻ này!»


Vài giờ sau, trên đường trở về nhà, tôi ngạc nhiên khi thấy một cậu bé đang đứng đó đợi tôi. Diện mạo cậu bé này rất giống cậu bé đã cầm tiền của tôi, nhưng nhỏ hơn vài tuổi, gầy gò, xanh xao hơn và thoáng một nỗi buồn tuyệt vọng:

- Thưa ông, có phải ông vừa đưa cho Rô-be một đồng tiền vàng không ạ?

Tôi khẽ gật đầu.

Cậu bé tiếp:

- Thưa ông, đây là tiền lẻ hoàn lại… Rô-be nhờ cháu… mang đến trả ông… Rô-be là anh cháu… chúng cháu mồ côi… Anh cháu không thể mang tiền trả ông được.. vì anh ấy bị xe chẹt… đang nằm ở nhà và khó lòng… sống nổi…

Em bé không nói được hết câu vì những tiếng nấc xé lòng. Tôi sững sờ cả người, tim se lại vì hối hận, hỏi dồn:

- Vậy bây giờ Rô-be ở đâu? Hãy đưa tôi đến.

Sau khi dừng lại một chút trước chiếc hầm nhỏ của một căn nhà đổ nát, em bé nói:

- Thưa ông, đây là nhà của chúng cháu.

Trong một góc tối của căn hầm, cạnh chiếc bếp lò cũ kĩ đã tắt ngắm từ lâu, giữa một đống giẻ rách, tôi nhận ra Rô-be nằm dài, bất động. Mặt em lúc này trắng bệch. Một dòng máu đỏ từ trán chảy xuống. Rô-be đưa mắt nhìn về phía tôi, giọng thều thào, yếu ớt:

- Thưa ông, ông hãy lại gần đây.

Tôi quỳ xuống bên em, cầm lấy bàn tay em, bàn tay khẳng khiu, gầy gò, đáng thương, lạnh ngắt.

- Sác-lây, em đưa tiền trả ông rồi chứ?

Cậu bé gật đầu, mắt đã sưng mọng.

- …Ôi! Đấy, ông xem, cháu không phải là đứa dối trá mà.

Tôi cúi sát xuống người em, cầm lấy bàn tay em, hôn vào chỗ trán bị thương nứt rạn và nói với Rô-be rằng: «Em hãy bình tâm, dù bất cứ tình huống nào, tôi cũng sẽ nuôi nấng Sác-lây cho em». Tôi nói dịu dàng, âu yếm an ủi Rô-be, để cái chết của em được thanh thản. Bàn tay khốn khổ của em nằm gọn trong tay tôi lạnh dần, lạnh dần… Em bé nghèo túng của tôi đã từ giã cõi đời quá ngắn ngủi như vậy đấy.

Cái chết đó làm cho tôi thấy rằng, trong cuộc đời tôi chưa hề được thấy một cử chỉ, hành động nào đẹp đẽ, cao cả như vậy. Một tâm hồn vô cùng cao thượng ẩn náu trong một em bé sống trong cảnh rất đỗi cực khổ nghèo khổ.

***

Nhiều người vẫn nói, muốn sống tử tế trước tiên cần phải có đầy đủ điều kiện vật chất và tinh thần thì mới làm được, còn nếu miếng ăn còn không đủ thì đừng vội nói đến, cứ như thể tử tế là cái gì đó cao sang, khó với tới được. Thực ra, tử tế chính là điều tối thiểu để làm người và nó cũng bắt đầu từ việc vô cùng đơn giản, đó là sống trung thực.

Sưu tầm


Tuesday, April 13, 2021

Cha & Con Gái

 

Cha & Con Gái

https://www.facebook.com/Saigontrongtraitimtoi/posts/2562708897391092/

Đêm khuya tôi đưa em gái mình vào phòng bệnh viện đợi sinh. Ngồi phía trước phòng cấp cứu, tôi thấy một người đàn ông đã ngoài 60 tuổi với vẻ mặt khắc khổ, lo lắng và luôn thấp thỏm nhìn vào trong.

Một chút tò mò, nên tôi thầm quan sát. 15 phút, 30 phút và 45 phút trôi qua người đàn ông ấy vẫn cứ thấp thỏm đứng lên ngồi xuống.

Tôi thốt lời hỏi:

«Anh chờ người nhà sanh à? vào phòng lâu chưa anh?».

Người đàn ông trả lời:

«Con gái tôi vào cũng được 6 tiếng đồng hồ rồi nhưng chưa thấy bác sĩ thông báo gì?».

Tự nhiên trái tim tôi thắt lại cũng chẳng hiểu lý do gì, có lẽ vì bất ngờ khi thấy hình ảnh một người cha đưa con mình đi sinh. Tôi tò mò, hỏi:

«Người nhà không có ai là phụ nữ hả anh? Vì anh là đàn ông chăm con gái sinh rất bất tiện».

Người đàn ông ấy cúi đầu xuống thấp, và giọng cũng nhỏ đi:

«Mẹ nó mất sớm, chị gái nó lại có chồng phương xa, tôi một mình nuôi nó nên nhà cũng neo đơn».

Tôi buột miệng hỏi:

«Vậy cha đứa bé đâu anh?».

Anh cười nhẹ trên gương mặt đầy nếp nhăn và nhân từ của một người cha nói:

«Nó bỏ con gái tôi từ khi nó hay tin con tôi có thai».

Sự thấu cảm trong tôi lúc này dâng cao, tôi thốt lên:

«Khốn nạn quá, rồi nó có hay tin con gái anh nó sinh không anh?».

Anh trầm hẳn xuống:

«Nó biệt vô âm tín rồi, nghe đâu nó có người phụ nữ khác, con tôi nó dại khờ nên đành thế, nhiều lần nó đòi chết, tôi khuyên nhủ nó và nói nó cố gắng sinh con, tôi sẽ ráng làm để nuôi mẹ con nó».

Tự nhiên khoé mắt tôi cay cay, không cầm được lòng tôi hỏi anh:

«Anh làm nghề gì? Rồi sinh sống ở đâu?».

Anh đáp:

«Tôi chạy xe ôm công nghệ, nhà ở quận 12, con gái tôi ngày thường đi làm công nhân xí nghiệp may».

Tôi im lặng vài phút, nhìn vào phòng sinh để xem bác sĩ có gọi tên em gái mình không, rồi quay sang hỏi con gái anh ấy tên gì. Cũng chẳng biết hỏi để làm gì cả, chỉ là để biết thế thôi. Tôi nhìn vào giỏ đồ bên dưới chân của anh nó nhỏ gọn lắm, rồi quay sang nhìn cái vali của em gái mình tự nhiên tôi xót xa và thương cho cha con anh quá.

Bác sĩ kêu tên em gái tôi, tôi và người nhà vội chạy lại, mới hay thằng cháu tôi nó vẫn chưa chịu ra đời và bác sĩ lại cho về nhà. Tôi chào tạm biệt anh, cũng chẳng kịp có món quà nào cho con gái và cháu của anh, tôi chỉ kịp vội lấy trong vali em gái mình vài món đồ nghĩ sẽ cần cho con gái anh và một ít quà nhỏ cuộn vào túi đồ để anh có chi phí trang trải cho những ngày ở bệnh viện.

Anh từ chối không nhận, tôi thuyết phục anh không được.

Tôi cầm cái túi anh đưa lại và nói:

«Thứ nhất đây là món quà em tặng cho con gái và cháu của anh, nó không phải món quà của anh vì thế anh đừng vì lòng tự trọng mà không nhận cho con cháu mình.

«Thứ hai em cảm ơn anh đã cho em thấy được tình cảm và sự bao dung của người cha, và cảm ơn anh vì đã là người tử tế trong cuộc đời này.

«Nếu anh không nhận thì xem như anh phụ lòng em”».

Nói xong tôi quay lưng bước đi, anh ngần ngại rồi vội chạy lại phía tôi và nói:

«Tôi cảm ơn cô, cô cho tôi thông tin, sau khi con gái sanh, cô có cần đi đâu, gọi điện cho tôi, tôi chạy không lấy tiền, đặng trả ơn lại cho cô».

Tôi nhẹ nhàng nói với người cha tuyệt vời ấy:

«Sẽ có cuộc đời trả lại cho em sau, còn bây giờ thì anh nhận món quà này và cầu chúc cho hai mẹ con em ấy được mẹ tròn con vuông, chúc anh luôn khoẻ mạnh để che chở cho cuộc đời của con và cháu mình.»

Lên xe ra về, chẳng biết bao giờ sẽ gặp lại người cha ấy, nhưng tôi biết mình đã hữu duyên để được chứng kiến một bức tranh đẹp trong cuộc sống - mà tôi vẫn thỉnh thoảng nghe nói:

«Cha không hoàn hảo nhưng luôn yêu con theo cách hoàn hảo nhất!».

Có một nghịch lý, chúng ta rất dễ nói lời yêu thương với bất kỳ ai đó, nhưng ta thường luôn ngại ngùng nói nó với cha của mình.

Thật may mắn cho cô gái trong phòng sinh ấy dù đang trải qua những tổn thương đau lòng khi đối diện với những cơn đau thập tử nhất sinh khi một mình và thiếu vắng đi bóng dáng của người cha đứa bé. Nhưng bên cạnh cô gái ấy giờ đây chính là tình yêu thương vô bờ bến của người cha thầm lặng nhưng lớn lao trong cuộc đời cô.

Ta vẫn thường hay nghe, hay nói, hay viết và tin vào cụm từ «mãi mãi», nhưng liệu mãi mãi là bao xa, mãi mãi là bao lâu?

Vậy mà hôm nay tôi đã chứng kiến một tình thương chẳng hề nói mãi mãi, nhưng nó luôn tồn tại - từ khi ta sinh ra đời đến khi lìa xa cõi đời, chính là tình yêu thương của cha mẹ dành cho ta.

Ngồi viết lại khoảnh khắc đẹp của tình phụ tử này khi trời rạng sáng, sau khi trên đường từ bệnh viện về.

Tôi thấy dường như đêm nay Sài Gòn đẹp thật, tôi hạ ô cửa kính xuống, hít thật sâu và thở ra.

Mọi thứ thật nhẹ nhàng và thanh thản tận sâu bên trong.

Facebook Diep Bui