Những câu chuyện ý nghĩa

Những câu chuyện ý nghĩa
Những câu chuyện ý nghĩa

Tuesday, December 9, 2025

Giữ lại phẩm giá cho người mà mình giúp đỡ

 Giữ lại phẩm giá
cho người mà mình giúp đỡ

Văn Chương

ao

Tôi nói dối ông chủ tôi mỗi ngày.

Tôi năm nay 72 tuổi. Tôi là một chức sắc trong nhà thờ, đóng thuế đàng hoàng, chưa bao giờ bị phạt nguội lần nào. Nhưng suốt chín năm nay, tôi đang thực hiện một kiểu "lừa đảo" ngay dưới mũi của ban quản lý tiệm đồ cũ "Cơ Hội Thứ Hai" này.

Nếu họ biết được, họ sẽ đuổi việc tôi ngay lập tức, chẳng kịp cho tôi cởi cái tạp dề ra. Nhưng tôi kệ. Bởi vì trong một xã hội cứ thích tước đoạt đi lòng tự trọng của người khác, tôi đã tìm ra cách để trả lại nó cho họ.

Công việc của tôi đơn giản lắm: phân loại đồ quyên góp. Tôi dán nhãn giá cho quần jeans, mấy cái áo khoác mùa đông nặng trịch, mấy đôi giày bảo hộ còn dùng tốt. Hầu hết khách hàng chẳng thèm nhìn tôi. Đối với họ, tôi chỉ là một phần của cảnh vật: một ông già lụ khụ, mắt đeo kính, tay bị đau khớp, cứ cắm cúi định giá mấy món đồ có mùi băng phiến và mùi ký ức của người lạ.

Nhưng cái việc vô hình này lại có cái lợi của nó. Nó cho phép tôi nhìn thấy hết mọi thứ.

Tôi thấy mấy bà mẹ đơn thân cứ so đi so lại giá đôi giày đi học của con với tiền mua thức ăn. Tôi thấy mấy chú cựu chiến binh cứ nhìn chằm chằm vào bộ vest họ cần để đi phỏng vấn, nhìn vào cái ví tiền rồi lặng lẽ quay lưng đi.

Và tôi nhớ nhất là thằng bé đó.

Lúc đó là giữa tháng Mười Một, ở cái thị trấn rỉ sét, lạnh lẽo của chúng tôi. Gió lùa qua phố sắc như dao cắt. Thằng bé bước vào với cái áo nỉ mỏng dính, đến nỗi nhìn rõ cái áo thun bên trong. Nó chắc chưa tới mười bốn tuổi. Gầy gò, run cầm cập, với cái nhìn vô hồn mà những đứa trẻ hay mang khi chúng bị xã hội bỏ rơi quá nhiều lần.

Nó đi thẳng đến khu áo khoác. Nó tìm thấy một chiếc áo parka xanh hải quân, rất ấm, hàng hiệu, gần như mới. Giá là 25 đô la. Nghe thì bèo, nhưng đối với nó là cả một gia tài.

Tôi lén nhìn. Nó chạm vào ống tay áo, như muốn cảm nhận hơi ấm mà chiếc áo hứa hẹn. Nó nhìn cái nhãn giá. Vai nó xụ xuống khoảng chục phân. Nó không rên rỉ, không than thở. Nó chỉ cẩn thận treo chiếc áo lên lại và đi thẳng ra cửa.

Tim tôi đập thình thịch. Tôi không thể đơn giản là cho không nó. Tôi học được rằng, việc bố thí có thể mang lại vị đắng cho những người đang cố gắng sống sót. Nếu bạn đưa tiền bố thí, họ cảm thấy mình nhỏ bé. Họ cảm thấy mình như một trường hợp cần giúp đỡ xã hội.

Thế là tôi cầm chiếc áo, đi ra quầy tính tiền để chặn nó lại.

"Ê, nhóc," tôi gọi.

Nó đứng khựng lại, sẵn sàng chạy trốn. "Con không có ăn cắp gì hết!"

"Tao biết," tôi càu nhàu, đóng vai ông già khó tính. "Nhưng tao đang có rắc rối. Cái áo này hả? Nó bị lỗi. Cái khóa kéo dưới cùng nó bị kẹt. Mà theo quy định của cửa hàng, đồ bị lỗi thì không thể bán quá ba đô la. Mày có ba đô la không?"

Nó nhìn tôi, bối rối. "Nhãn ghi hai mươi lăm mà."

"Nhãn ghi sai đấy," tôi nói dối, giật phắt cái nhãn đi. "Tao là người quản lý kho. Tao nói nó ba đô la. Mày lấy không hay để tao quăng nó đi?"

Nó do dự, dò xét gương mặt tôi xem có bẫy gì không. Rồi nó lục túi, lôi ra ba tờ tiền nhăn nhúm.

"Dạ, có," nó thì thầm. "Con lấy."

Nó mặc chiếc áo vào ngay lập tức. Kéo khóa lên tận cổ — khóa vẫn hoạt động trơn tru, dĩ nhiên rồi — và nó thẳng lưng lên. Nó không còn trông như một thằng bé co ro vì lạnh nữa. Nó trông như một thanh niên vừa mới làm một phi vụ hời. Nó trông có vẻ được che chở.

"Cảm ơn ông," nó nói.

"Quy định cửa hàng thôi," tôi lầm bầm, quay lưng đi để nó không thấy mắt tôi hơi ướt.

Mọi chuyện bắt đầu từ đó.

Nhiều năm qua, cái "quy định cửa hàng" đó đã trở thành vũ khí bí mật của tôi.

Khi bà Miller, một góa phụ sống bằng đồng lương hưu ít ỏi, cần một cái máy nướng bánh mì mới nhưng chỉ có 5 đô la trong túi, thì cái máy 20 đô la bỗng nhiên bị dán nhãn là "dây điện bị hở".

Khi một ông bố trẻ cần đôi giày bảo hộ để bắt đầu công việc xây dựng đầu tiên, tôi tự động "giảm giá đặc biệt sáng thứ Ba".

Tôi tự nhớ trong đầu. Tôi tự bỏ tiền túi bù vào nếu tiền mặt bị hụt, hoặc tôi khai báo những món đồ đó là "không bán được/đã tiêu hủy" trong hệ thống. Tôi sợ bị bắt lắm chứ.

Thế rồi một buổi chiều, một người phụ nữ đeo khăn choàng cashmere đã bắt quả tang tôi. Cô ta thấy tôi bán một chiếc xe đẩy em bé gần như mới cho một cô gái trẻ đang sợ hãi với giá 10 đô la.

Khi cô gái đi khỏi, người phụ nữ đó bước đến. Tôi chuẩn bị tinh thần bị mắng té tát hoặc bị dọa gọi quản lý.

Thế nhưng, cô ta lại đặt một tờ 100 đô la gấp gọn lên quầy.

"Cho mấy cái... sai sót kiểm kê của ông," cô ta nháy mắt.

Và chuyện này bắt đầu lan ra. Một cách kín đáo. Những khách quen bắt đầu hiểu. Họ không bao giờ nói một lời. Họ mua một món đồ lặt vặt giá 5 đô la, đưa tôi tờ hai mươi, rồi nói: "Giữ lại tiền thối cho lần sau... hệ thống gặp trục trặc nhé."

Chúng tôi đã xây dựng nên một nền kinh tế bí mật chỉ dựa trên phẩm giá. Chúng tôi không bố thí; chúng tôi đang cân bằng lại cơ hội.

Thứ Ba tuần trước, tiếng chuông trên cửa kêu leng keng.

Một người đàn ông bước vào. Cao lớn, vai rộng, mặc bộ đồng phục nhân viên cấp cứu chỉnh tề. Anh ta đi đứng tự tin, nhưng không phải để mua sắm.

Anh đi thẳng đến quầy của tôi.

"Ông là Arthur," anh ta khẳng định.

Tôi chỉnh lại kính. "Đúng là tôi."

Anh ta cười, và đột nhiên, tôi thấy lại hình ảnh cậu bé mười bốn tuổi gầy gò trong chiếc áo nỉ xám mỏng manh ngày nào.

"Ông bán cho tôi cái áo parka xanh hải quân cách đây mười năm," anh ta nói. "Ông bảo cái khóa kéo nó bị hỏng."

Tôi cảm thấy má mình nóng ran. "Tôi xử lý nhiều áo khoác lắm, cậu bé."

"Khóa kéo không hề hỏng đâu, Arthur." Anh ta cúi xuống, giọng nghẹn lại vì xúc động. "Tôi biết ông nói dối. Ngay cả lúc đó tôi cũng biết. Nhưng ông đã không bắt tôi phải đi xin xỏ. Ông để tôi được mua nó. Ông để tôi là một khách hàng, chứ không phải một kẻ ăn xin. Tôi bước ra khỏi đây với cảm giác như một người đàn ông."

Anh ta rút ra một phong bì từ túi áo.

"Giờ tôi là nhân viên cấp cứu. Tôi cứu người. Nhưng tôi không nghĩ tôi đã sống sót qua mùa đông năm đó nếu không có chiếc áo khoác đó. Hoặc nếu không biết rằng có người thực sự quan tâm đến mình."

Anh ta đặt phong bì lên quầy.

"Trong đây có 500 đô la," anh ta nói. "Ông dùng nó đi. Tôi biết cái 'quy định cửa hàng' của ông tốn kém lắm."

Tôi run rẩy cố gắng trả lại. "Tôi không thể..."

"Cái này không phải cho ông," anh ta nói dứt khoát. "Nó dành cho đứa trẻ run rẩy tiếp theo bước vào đây. Hãy đảm bảo rằng khóa kéo của nó cũng bị hỏng, nhé."

Rồi anh ta quay lưng bước đi, đầu ngẩng cao, hòa vào ánh nắng mùa thu.

Tôi đã 72 tuổi. Lưng tôi đau, chân tôi sưng vù sau một ngày dài. Nhưng tôi có công việc tuyệt vời nhất trên đời.

Chúng ta đang sống trong một đất nước nói rằng giá trị của bạn phụ thuộc vào số tiền trong tài khoản. Người ta bảo nhau phải tự lực cánh sinh, ngay cả khi họ không có gì.

Nhưng tôi đã học được một điều trong cái cửa hàng bụi bặm cũ kỹ này: Phẩm giá quan trọng hơn việc bố thí.

Đôi khi, giúp đỡ một người không chỉ là cho họ thứ họ cần. Mà là cách bạn trao nó cho họ.

Nếu bạn có thể giúp đỡ ai đó mà vẫn giữ được lòng tự trọng của họ — nếu bạn có thể giúp họ mà không làm họ cảm thấy nhỏ bé — bạn không chỉ nuôi dưỡng thân thể họ, bạn còn đang cứu rỗi cả tâm hồn họ nữa.

Vì vậy, tôi sẽ tiếp tục nói dối. Tôi sẽ tiếp tục lách luật. Tôi sẽ tiếp tục bịa ra những quy định không hề tồn tại.

Bởi vì cái mác giá chẳng có ý nghĩa gì. Điều quan trọng là người mặc nó.

Văn Chương

Thursday, September 4, 2025

Sự tích lễ Vu Lan

 Sự tích rằm tháng bảy 
và xuất xứ của hai tiếng Vu Lan

AN CHI


Rằm tháng 7 Âm lịch hàng năm là ngày xá tội vong nhân, dân gian gọi một cách nôm na là ngày cúng cô hồn. Nhưng đây cũng còn là ngày báo hiếu mà giới tăng ni Phật tử gọi là ngày lễ Vu Lan. Vậy lễ này và lễ cúng cô hồn có phải là một hay không? Và đâu là xuất xứ của hai tiếng "Vu Lan"?


Lễ Vu Lan bắt nguồn từ sự tích về lòng hiếu thảo của Ông Ma Ha Một Ðặc Già La, thường gọi là Ðại Mục Kiền Liên, gọi tắt là Mục Liên. Vốn là một tu sĩ khác đạo, về sau Mục Liên đã quy y và trở thành một đệ tử lớn của Phật, đạt được sáu phép thần thông rồi được liệt vào hạng thần thông đệ nhất trong hàng đệ tử của Phật. Sau khi đã chứng quả A La Hán, Mục Liên ngậm ngùi nhớ đến mẫu thân, bèn dùng huệ nhãn nhìn xuống các cõi khổ mà tìm thì thấy mẹ đã đọa vào kiếp ngạ quỷ (quỷ đói) nơi địa ngục A Tì. Thân hình tiều tụy, da bọc xương, bụng ỏng đầu to, cổ như cọng cỏ. Mẹ Mục Liên đói không được ăn, khát không được uống. Quá thương cảm xót xa, Mục Liên vận dụng phép thần thông, tức tốc đến chỗ mẹ. Tay bưng bát cơm dâng mẹ mà nước mắt lưng tròng. Mẹ Mục Liên vì đói khát lâu ngày nên giật vội bát cơm mà ăn. Tay trái bưng bát, tay phải bốc cơm nhưng chưa vào đến miệng thì cơm đã hóa thành lửa. Mục Liên đau đớn vô cùng, khóc than thảm thiết rồi trở về bạch chuyện với Ðức Phật để xin được chỉ dạy cách cứu mẹ.


Phật cho Mục Liên biết vì nghiệp chướng của các kiếp trước mà mẹ ông mới phải sanh vào nơi ác đạo làm loài ngạ quỷ. Một mình Mục Liên thì vô phương cứu được mẹ dù ông có thần thông đến đâu và dù lòng hiếu thảo của ông có thấu đến đất trời, động đến thần thánh. Phải nhờ đến uy đức của chúng tăng khắp các nẻo đồng tâm hiệp ý cầu xin cứu rỗi cho mới được. Bởi vậy, Phật dạy Mục Liên phải thành kính đi rước chư tăng khắp mười phương về, đặc biệt là các vị đã chứng được bốn quả thánh hoặc đã đạt được sáu phép thần thông. Nhờ công đức cầu nguyện của các vị này, vong linh mẹ Mục Liên mới thoát khỏi khổ đạo. Phật lại dạy Mục Liên sắm đủ các món để dâng cúng các vị ấy, nào là thức thức thời trân, hương dâu đèn nến, giường chõng chiếu gối, chăn màn quần áo, thau rửa mặt, khăn lau tay cùng các món nhật dụng khác. Ðúng vào ngày rằm tháng 7 thì lập trai đàn để cầu nguyện, thiết trai diên để mời chư tăng thọ thực. Trước khi thọ thực, các vị này sẽ tuân theo lời dạy của Ðức Phật mà chú tâm cầu nguyện cho cha mẹ và ông bà bảy đời của thí chủ được siêu thoát. Mục Liên làm đúng như lời Phật dạy. Quả nhiên vong mẫu của ông được thoát khỏi kiếp ngạ quỷ mà sanh về cảnh giới lành. Cách thức cúng dường để cầu siêu đó gọi là Vu Lan bồn pháp, lễ cúng đó gọi là Vu Lan bồn hội, còn bộ kinh ghi chép sự tích trên đây thì gọi là Vu Lan bồn kinh.


Ngày rằm tháng 7 do đó được gọi là ngày lễ Vu Lan. Vậy lễ này có phải cũng là lễ cúng cô hồn hay không? Không! Ðây là hai lễ cúng khác nhau được cử hành trong cùng một ngày. Sự tích lễ cúng cô hồn đại khái như sau: Cứ theo «Phật Thuyết Cứu Bạt Diệm Khẩu Ngạ Quỷ Ðà La Ni Kinh» mà suy thì việc cúng cô hồn có liên quan đến câu chuyện giữa ông A Nan Ðà, thường gọi tắt là A Nan, với một con quỷ miệng lửa (diệm khẩu) cũng gọi là quỷ mặt cháy (diệm nhiên). Có một buổi tối, A Nan đang ngồi trong tịnh thất thì thấy một con ngạ quỷ thân thể khô gầy, cổ nhỏ mà dài, miệng nhả ra lửa bước vào. Quỷ cho biết rằng ba ngày sau A Nan sẽ chết và sẽ luân hồi vào cõi ngạ quỷ miệng lửa mặt cháy như nó. A Nan sợ quá, bèn nhờ quỷ bày cho phương cách tránh khỏi khổ đồ. Quỷ đói nói: «Ngày mai ông phải thí cho bọn ngạ quỷ chúng tôi mỗi đứa một hộc thức ăn, lại vì tôi mà cúng dường Tam Bảo thì ông sẽ được tăng thọ mà tôi đây cũng sẽ được sanh về cõi trên». A Nan đem chuyện bạch với Ðức Phật. Phật bèn đặt cho bài chú gọi Là "Cứu Bạt Diệm Khẩu Ngạ Quỷ Ðà La Ni", đem tụng trong lễ cúng để được thêm phước. Phật tử Trung Hoa gọi lễ cúng này là Phóng diệm khẩu, tức là cúng để bố thí và cầu nguyện cho loài quỷ đói miệng lửa, nhưng dân gian thì hiểu rộng ra và trại đi thành cúng cô hồn, tức là cúng thí cho những vong hồn vật vờ không nơi nương tựa vì không có ai là thân nhân trên trần gian cúng bái. Vì tục cúng cô hồn bắt nguồn từ sự tích này, cho nên ngày nay người ta vẫn còn nói cúng cô hồn là Phóng diệm khẩu. Có khi còn nói tắt thành Diệm khẩu nữa. Diệm khẩu, từ cái nghĩa gốc là (quỷ) miệng lửa, nay lại có nghĩa là cúng cô hồn. Ðiều này góp phần xác nhận nguồn gốc của lễ cúng cô hồn mà chúng tôi đã trình bày trên đây. Phóng diệm khẩu mà nghĩa gốc là «thả quỷ miệng lửa», về sau lại được hiểu rộng thêm một lần nữa thành «tha tội cho tất cả những người chết». Vì vậy, ngày nay mới có câu «Tháng bảy ngày rằm xá tội vong nhân».


Vậy lễ Vu Lan và lễ cúng cô hồn là hai lễ cúng khác nhau. Một đằng thì liên quan đến chuyện ông Mục Liên, một đằng lại liên quan đến chuyện ông A Nan. Một đằng là để cầu siêu cho cha mẹ và ông bà bảy đời, một đằng là để bố thí cho những vong hồn không ai thờ cúng. Một đằng là báo hiếu, một đằng là làm phước. Sự khác nhau giữa hai bên là hiển nhiên, nhưng nhiều người vẫn cứ lẫn lộn. Chẳng hạn trước đây, ông Thái văn Kiểm cho rằng lễ Vu Lan và lễ (xá tội) vong nhân (fête des Trépassés) là một. Còn lễ cúng cô hồn (fête des âmes errantes) và lễ xá tội vong nhân (Pardon des Trépassés) chính là một thì ông lại xem là hai (X. Les fêtes traditionnelles Vietnamiennes, B.S.E.I., t. XXXVI, no1, 1961, pp. 64-65). Mới đây, hai tác giả Thích Minh Châu và Minh Chi cho rằng lễ Vu Lan là để cầu nguyện cho vong hồn những người đã chết (Chúng tôi nhấn mạnh – HT) không còn phải đọa cảnh khổ nữa (Từ điển Phật học Việt Nam, Hà Nội, 1991, tr. 795, mục Vu Lan bồn). Nhưng đây không phải là «những người đã chết» nói chung vì như đã biết, đó chỉ là cha mẹ cùng với ông bà bảy đời mà thôi.


Trở lên là nói về sự khác nhau giữa lễ cúng cô hồn với lễ báo hiếu, thường gọi là lễ Vu Lan. Vu Lan là dạng tắt của Vu Lan bồn. Nhưng Vu Lan bồn là gì ? Sau đây là lời giảng của Thích Minh Châu và Minh Chi : «Bồn là cái chậu đựng thức ăn. Cái chậu đựng thức ăn đem cúng dường chư tăng vào ngày rằm tháng 7 để cầu nguyện cho vong hồn những người đã chết không còn phải đọa cảnh khổ nữa. Vu Lan dịch âm từ chữ Sanscrit Ullabana, là cứu nạn treo ngược. Những người làm nhiều điều ác đức, sau khi chết, phải thác sinh xuống những cõi sống rất khổ gọi là địa ngục. Ở đây có một khổ hình là bị treo ngược» (Sđd, tr. 795). Chúng tôi sẽ dựa vào lời giảng này mà tìm hiểu về xuất xứ của mấy tiếng «Vu Lan» và «Vu Lan bồn». Lời giảng này có bốn điểm sai mà điểm sai thứ nhất thì chúng tôi vừa mới chỉ ra ở những dòng cuối của đoạn trên.


Sau đây là điểm sai thứ hai : Nói bồn là cái chậu đựng thức ăn thì không đúng vì bồn chỉ là một yếu tố phiên âm (sẽ phân tích rõ ở phần sau) mà thôi. Nói rằng đó là «cái chậu đựng thức ăn đem cúng dường chư tăng vào ngày rằm tháng 7» thì lại sai theo một kiểu khác nữa. Chậu là «đồ dùng thường làm bằng sành sứ hoặc kim loại, miệng rộng, lòng nông, dùng để đựng nước rửa ráy, tắm giặt hoặc để trồng cây v.v…» (Từ điển tiếng Việt 1992). Vậy đựng thức ăn trong loại đồ dùng đó mà dâng lên cho chư tăng thọ thực là một hành động hoàn toàn thất nghi và thất lễ. Thật ra, Phật đã dạy Mục Liên như sau:


«Phải toan sắm sửa chớ chầy
Ðồ ăn trăm món trái cây năm màu
Lại phải sắm giường nằm nệm lót
Cùng thau, bồn, đèn đuốc, nhang dầu
Món ăn tinh sạch báu mầu
Ðựng trong bình bát vọng cầu kính dâng» 

(Diễn ca kinh Vu Lan bồn)


Thau, bồn (chậu) chỉ là những thứ phải dâng cho chư tăng trong dịp Vu Lan để dùng trong việc rửa ráy, tắm giặt… mà thôi. Còn thức ăn thì phải «tinh sạch báu mầu, đựng trong bình bát» đàng hoàng lịch sự, chứ có đâu lại đựng trong chậu.


Thật ra, trước Thích Minh Châu và Minh Chi, cũng có những học giả đã giảng như trên, chẳng hạn Ðoàn Trung Còn trong bộ từ điển lớn về Phật học hoặc Toan Ánh trong bộ sách dày về nếp cũ. Ðây là một cách giảng lệ thuộc vào cái sai của sách vở Trung Hoa. Từ Nguyên chẳng hạn, đã giảng về mấy tiếng Vu Lan bồn như sau : «Nói lấy chậu đựng trăm thức để cúng dường chư Phật» (Vị dĩ bồn trữ bách vị cung dưỡng chư Phật).


Ðiểm sai thứ ba là đã theo cái sai của những người đi trước mà giảng Vu Lan thành «cứu nạn treo ngược», vì thấy từ điển Trung Hoa giảng Vu Lan bồn là «cứu đảo huyền». Thật ra, khi Từ Nguyên chẳng hạn, giảng Vu Lan bồn thành «cứu đảo huyền» là đã mượn hai tiếng «đảo huyền» trong sách Mạnh Tử. Trong sách này, có cú đoạn "Dân chi duyệt chi do Giải đảo huyền dã" nghĩa là «như giải thoát khỏi sự khốn khổ tột cùng vậy». Chính Từ Nguyên cũng đã giảng «đảo huyền» là sự khốn khổ tột cùng (khốn khổ chi thậm). Vậy «cứu đảo huyền» không phải là «cứu nạn treo ngược» mà lại là " giải thoát khỏi sự khốn khổ tột cùng ". Hai tiếng " đảo huyền " ở đây không còn được hiểu theo nghĩa đen nữa. Nghĩa của chúng ở đây cũng giống như nghĩa của chúng trong thành ngữ " đảo huyền chi tế " là tình cảnh khốn khó, chứ không phải là " cảnh bị treo ngược ".


Ðiểm sai thứ tư là ở chỗ nói rằng danh từ Sanscrit "Ullabana" có nghĩa là "cứu nạn treo ngược". Trước nhất, cần nói rằng từ Sanscrit này đã bị viết sai. Vậy không biết ở đây hai tác giả muốn nói đến danh từ Sanscrit nào, nhưng cứ theo dạng sai chính tả đã thấy thì có thể luận ra rằng đó là một trong hai từ sau đây : Ullambana hoặc Ullambhana. Ở đây, xin phân tích từ thứ nhất: Ullambana gồm có ba hình vị : ud (trở thành ul do quy tắc biến âm samdhi khi d đứng trước l) là một tiền tố, thường gọi là tiền động từ (préverbe) chỉ sự vận động từ dưới lên, lamb là căn tố động từ có nghĩa là treo và ana là hậu tố chỉ hành động. Vậy Ullambana có nghĩa là sự treo lên. Nhưng tất cả chỉ có như thế mà thôi ! Từ Sanscrit này không hề diễn đạt cái ý treo ngược hoặc treo xuôi gì cả. Nó lại càng không thể có nghĩa là "cứu nạn treo ngược " được.


Trở lên, chúng tôi đã nêu ra những điểm sai trong lời giảng của Thích Minh Châu và Minh Chi về hai tiếng "Vu Lan ". Vậy đâu là xuất xứ và ý nghĩa đích thực của hai tiếng này ? Trước nhất, Vu Lan là dạng nói tắt của " Vu Lan bồn ". Ðây là ba tiếng đã được dùng để phiên âm danh từ Sanscrit Ullambhana. Từ này thoạt đầu đã được phiên âm bằng bốn tiếng Hán đọc theo âm Hán Việt là Ôlambàna. Dạng phiên âm cổ xưa này đã được Từ Hải khẳng định. Về sau, Ôlambàna được thay thế bằng dạng phiên âm mới là " Vu Lan bồn", trong đó Vu thay thế cho Ô, lan cho lam và bồn cho bà + n (a). Vì " Vu Lan bồn " chỉ là ba tiếng dùng để phiên âm, cho nên từng tiếng một (Vu, Lan, bồn) hoàn toàn không có nghĩa gì trong Hán ngữ cả. Do đó, tách bồn ra mà giảng thành " cái chậu đựng thức ăn " như hai tác giả Thích Minh Châu và Minh Chi đã làm là hoàn toàn không đúng.


Ullambhana có nghĩa là sự giải thoát. Danh từ Sanscrit này có ba hình vị: Tiền tố ud (trở thành ul vì lý do đã nói), căn tố động từ lambh và hậu tố ana. Xin nói rõ về từng hình vị: Không giống như trong Ullambana, ở đó nó chỉ sự vận động từ dưới lên. Trong Ullambhana, tiền tố ud chỉ ý phủ định hoặc đối lập, thí dụ : chad (che, bọc, phủ), dv (đối với), uc-chad (cởi quần áo), khan (chôn), đv ut-khan (moi lên), gam (đi), đv ud-gam (đi ra), nah (trói, buộc), đv un-nah (cởi trói) v.v… Trong những thí dụ trên, ud trở thành uc, ut, un do quy tắc biến âm samdhi. Còn các căn tố động từ thì được ghi bằng chữ in hoa theo truyền thống khi chúng được tách riêng. Căn tố động từ lambh là hình thái luân phiên với labh, có nghĩa là lấy, chiếm lấy, nắm bắt … Vậy Ul-lambh có nghĩa là giải thoát. Hậu tố ana chỉ hành động có liên quan đến ý nghĩa mà tiền tố và căn tố động từ diễn đạt. Vậy Ullambhana có nghĩa là sự giải thoát. Ullambhana được phiên âm sang Hán ngữ bằng ba tiếng dọc theo âm Hán Việt là "Vu Lan bồn". Vu Lan bồn được nói tắt thành Vu Lan. Vậy Vu Lan là sự giải thoát. Xuất xứ của nó là danh từ Sanscrit Ullambhana. Ðây là từ thứ hai trong hai từ mà chúng tôi đã suy đoán ở trên. Trong cấu tạo của từ này, tuyệt nhiên cũng không có một thành tố nào mà về ngữ nghĩa lại có liên quan đến hiện tượng " treo ngược " cả.


Trở lên, dù sao cũng chỉ là ý kiến thô thiển của một cá nhân. Ðúng hay sai, xin được sự thẩm xét của các nhà chuyên môn, trước nhất là các nhà Phật học và các nhà Phạn học.


Gò Công ngày 22-08-2018

Saturday, July 5, 2025

Siêu nghiệm là gì?

Siêu nghiệm là gì?

Để hiểu siêu nghiệm là gì, mời Quí Vị đọc câu chuyện ngụ ngôn sau đây mà tôi đọc được ở đâu đó:

● Có một con cá được người ta nuôi trong một cái hồ thủy tinh từ hồi sinh ra. Cá chỉ sống trong nước, không biết gì ngoài nước và những gì nó thấy trong nước. Một hôm, người ta bắt được một con rùa ở bờ sông và đem về nuôi chung trong cái hồ thủy tinh ấy. Hai con vật lâu ngày quen nhau, và con rùa kể cho cá nghe những gì mình đã thấy, đã gặp trên đất liền. Nói tới bất cứ cái gì thì cá cũng ngạc nhiên, không hiểu được điều rùa mô tả là cái gì. Chẳng hạn, rùa mô tả về đất. Cá hỏi:  
 + Đất là gì? 
 − Là cái mà người ta đi lên, dẵm chân lên. 
 + Vậy nó là cái đáy hồ mà anh đang đi, đang dẵm chân lên, phải không? 
 − Đúng rồi, nhưng không phải là như vậy.  
 + Tại sao đúng rồi mà không phải là như vậy? 
 − Đúng ở chỗ nó là cái người ta đi lên, dẵm lên, nhưng không đúng ở chỗ nó không phẳng phiu và trơn láng như đáy hồ này.  
 + Vậy là nó giống như cái lưng của anh phải không? 
 − Đúng rồi nhưng không phải là như vậy.  
 + Tại sao đúng rồi mà không phải là như vậy? 
 − Đúng ở chỗ nó không phẳng phiu và trơn láng, nhưng không đúng ở chỗ nó không đồng chất với đáy hồ.  
 + Cái lưng của anh cũng đâu có đồng chất với đáy hồ, tại sao nó không giống như cái lưng của anh? 
 − Nó không đồng chất với đáy hồ, mà cũng không đồng chất với lưng của tôi, cũng không đồng chất với da thịt chị, với đồ ăn của chúng ta.  
 + Vậy thì nó là cái gì? 
 − Cái chất đó không giống như bất cứ chất gì trong cái hồ này, nên tôi không thể diễn tả được. Nhưng nó khô chứ không ướt át như mọi thứ trong hồ này.  
 + Thế nào là khô và thế nào là ướt nhỉ? 
 − Khô là không có nước, còn ướt là có nước.  
 + Nước là gì? 
 − Nước là cái đang bao bọc chung quanh chúng ta. Chúng ta đang bơi lội trong nước.  
 + Vậy nước cũng là cái khoảng không giữa anh và tôi phải không? 
 − Phải.  
 + Vậy thì không có nước, tức là không có cái khoảng không này à? 
 − Ồ, giữa chị và tôi không phải là khoảng không trống rỗng, mà là nước.  
 + Vậy thì không có nước, hay khô là gì? Tôi hoàn toàn chưa thể quan niệm được. 
 − Tôi không biết phải nói làm sao. Nhưng khô thì không trơn, không mát mẻ, không êm dịu…  
 + Vậy là tôi chẳng hiểu gì cả, chẳng hiểu đất là gì mà cũng chẳng hiểu khô là gì. 
 − Tôi nói rõ ràng và chân thật như thế mà chị không hiểu sao?  
+ … . ?! ?!   

 Siêu nghiệm không hẳn phải là một cái gì cao vời, siêu việt, nó chỉ là tình trạng hoàn toàn vượt ra ngoài tất cả những gì mà một chủ thể ý thức chưa hề kinh nghiệm một chút nào.

Đối với con rùa đã từng sống trên mặt đất, nên nó đã biết đất như thế nào. Nó đã từng kinh nghiệm về khô và ướt khác nhau thế nào. Nhưng một con cá sinh ra ở trong nước, lớn lên ở trong nước, cả cuộc đời nó không bao giờ ra khỏi nước. Do đó, nó không hề có một ý niệm nào về «khô» cả. Và vì không có ý niệm «khô», nên nó cũng chẳng có ý niệm nào là «ướt» cả, mặc dù nó luôn luôn sống trong môi trường «ướt», vì muốn có ý niệm «ướt» thì phải có ý niệm «khô» để mà so sánh, đối chiếu.
Một minh họa khác về siêu nghiệm:
Trong thung lũng nọ, có một làng mà mọi người trong làng đều mù từ khi sinh ra. Họ hoàn toàn chỉ sống với 4 giác quan: thính giác (tai để nghe), khứu giác (mũi để ngửi), vị giác (lưỡi để nếm), xúc giác (da để cảm nghiệm nóng lạnh, phẳng hay gồ ghề, v.v...). Không ái có thị giác (mắt để nhìn, để thấy)
Một hôm, có một chàng thanh niên ở một làng cách đó khá xa đi thám hiểm và lạc vào làng toàn người mù bẩm sinh ấy. Khi thấy cảnh trí ở làng ấy quá đẹp, anh nói với dân làng ấy, 
− Cảnh ở đây đẹp quá, cây cối xanh tốt quá, hoa đủ màu đủ sắc: đỏ, hồng, tím, trắng...
Dân làng ngơ ngác không hiểu anh nói gì. Họ hỏi:
 + Anh nói hoa ở đây màu đò, hồng, tím, trắng… nghĩa là gì? nó cứng hay nó mềm? nó khô hay nó ướt? nó mịn hay nó nhám? (họ hỏi đủ kiểu liên quan đến 4 giác quan mà họ có được)
Tất cả mọi câu hỏi liên quan đến những giác quan mà họ có, anh đều trả lời không phải. Họ bèn hỏi: 
 + Vậy Anh hay cố diễn tả cho chúng tôi biết mấy cái mầu sắc đỏ, xanh, tìm… ấy là gì để chúng tôi hiểu.
Chàng thanh niên không biết phải dùng từ ngữ nào để nói cho những người mù bẩm sinh màu xanh là gì, màu đỏ là gì... Mặc dù những màu sắc ấy hiển hiện ngay trước mắt anh rất cụ thể và rất rõ ràng. Anh hoàn toàn bất lực không sao giải thích cho họ được. 
….
Khi nghe ai nói màu xanh, màu đỏ hay bất cứ màu gì, người bình thường có đủ 5 giác quan đều cảm thấy rất dễ hiểu, Nhưng tại sao anh không sao giải thích được cho những người mù bẩm sinh kia hiểu và cảm nghiệm được những màu mà anh thấy một cách quá dễ dàng, nó chẳng có gì siêu việt đối với anh cả?
Tại sao? Tại vì màu sắc là một thực thể siêu nghiệm đối với những người mù bẩm sinh. Họ chỉ có thể hiểu được, cảm nghiệm được những màu sắc ấy khi có bác sĩ nào làm cho họ có mắt để thấy được mà thôi.
Cũng tương tự như vậy, một người đã từng ăn sầu riêng chẳng hạn, không thể nào mô tả cái vị ngọt của sầu riêng khác với vị ngọt của chuối, của cam, của xoài thế nào để người chưa bao giờ được ăn sầu riêng… Không có ngôn ngữ nào để có thể diễn tả cho người kia cảm nghiệm được như người đã từng ăn.
Nguyễn Chính Kết 


Sunday, November 10, 2024

Ba lời khuyên quý giá

Ba lời khuyên quý giá

https://todaynewsbc.com/?p=34307

Một cặp vợ chồng mới kết hôn rất nghèo và sống trong một nông trại nhỏ. Một ngày, người chồng nói với vợ: «Em yêu, anh sẽ rời ngôi nhà này… Anh sẽ phải đi rất xa, rất xa, tìm một công việc, rồi làm thật chăm chỉ để có thể trở về và cho em một cuộc sống đầy đủ mà em luôn xứng đáng. Anh không biết đôi ta sẽ biệt ly bao lâu, vì vậy anh chỉ đòi hỏi em một điều này thôi: Hãy đợi anh. Khi anh không còn ở đây, em hãy giữ tấm lòng son, hãy bảo toàn sự thủy chung, bởi anh cũng sẽ như vậy với em.»

Sau đó, người chồng rời đi. Ngày lại ngày trôi qua, anh đã đi một quãng đường rất rất xa, cho đến khi gặp một lão nông bên đường. Ông lão cũng đang cần tìm người phò tá mình. Chàng trai trẻ bước đến và tỏ ý muốn trở thành người hầu cận giúp đỡ ông mỗi ngày. Ông lão chấp nhận, sau đó, họ cùng thảo luận với nhau. Anh nói:

«Hãy để tôi làm việc chừng nào tôi còn có thể, và khi tôi nhận thấy đã đến lúc phải trở về cố hương, xin hãy để tôi đi. Tôi không muốn nhận một đồng lương nào trong lúc này – ngài vui lòng giữ lại giúp tôi cho đến ngày tôi rời đi. Vào ngày ấy, xin hãy đưa lại cho tôi toàn bộ số tiền ấy».

Họ cùng đồng ý với thỏa thuận này. Và thế là người chồng làm việc trong nông trại của ông lão trong suốt 20 năm – không có ngày lễ, và cũng không có ngày nghỉ ngơi. Thấm thoắt 20 năm đã trôi qua, anh đến gặp ông chủ của mình và nói:

«Thưa ngài, đã đến lúc tôi cần phải trở về nhà, xin ngài hãy gửi lại tôi số tiền lương trong những năm qua».

Ông chủ của anh trả lời:

«Tốt lắm! Sau cùng, ta đã có thỏa thuận với anh và ta sẽ giữ lời. Tuy nhiên, trước khi anh đi, ta muốn anh hãy cân nhắc điều này: Hoặc là ta sẽ trả lại anh tất cả số tiền và để anh đi; hoặc ta sẽ cho anh 3 lời khuyên và để anh đi. Nếu anh chọn túi tiền, ta sẽ không cho anh 3 lời khuyên ấy; và ngược lại, nếu anh chọn lời khuyên, ta cũng sẽ không đưa tiền cho anh. Bây giờ, chàng trai, hãy trở về phòng và suy nghĩ trước khi cho ta biết quyết định của mình».

Sau hai ngày suy nghĩ, anh quay lại và nói với ông chủ:

«Thưa ngài, tôi muốn nhận 3 lời khuyên của ngài».

«Đừng quên rằng, nếu ta cho anh 3 lời khuyên này, ta sẽ không đưa tiền cho anh. Anh còn băn khoăn điều gì không?»

«Thưa ngài, tôi muốn nhận 3 lời khuyên…»

Sau đó, ông chủ nói với anh:

«Một là: Đừng bao giờ lựa chọn đường tắt trong cuộc đời. Những con đường nóng vội có thể tiềm ẩn mối hiểm họa khôn lường!

«Hai là: Đừng bao giờ quá hiếu kỳ, bởi cái giá cho hiếu kỳ có thể là quá đắt…

«Ba là: Đừng bao giờ quyết định trong cơn nóng giận hay trong lúc tuyệt vọng, bởi những quyết định mù quáng sẽ khiến anh phải hối hận muộn màng.»

Tiếp đó, ông chủ đưa cho anh ba chiếc bánh mỳ và nói:

«Đây là 3 chiếc bánh mỳ dành cho anh: Hai chiếc trên đường, còn chiếc cuối cùng để anh thưởng thức cùng vợ mình khi trở về nhà».

Tạm biệt ông lão, người đàn ông lên đường trở về. Con đường 20 năm cách trở trải dài ra trước mắt. Anh hồi hộp mong chờ đến giây phút đoàn tụ với người vợ ở quê nhà.

Sau ngày đầu tiên, anh gặp một hành khách trên đường. Người lạ mặt nói:

«Chàng trai, anh đang đi đâu thế?»

«Đến một nơi rất xa, cách đây 20 ngày đường nếu tôi tiếp tục đi về hướng này».

Người lạ mặt lại nói:

«Ồ, anh bạn trẻ, đường sẽ rất dài và xa xôi! Tôi biết có một ngã rẽ khác giúp anh sớm trở về nhà».

Anh hăm hở bước theo con đường mới này. Nhưng rồi sau đó, chợt nhớ lại lời khuyên đầu tiên của ông lão, anh bèn quay trở lại con đường cũ lúc đầu. Nhiều ngày sau đó, anh vô tình biết rằng đoạn đường tắt hôm trước có rất nhiều đạo tặc mai phục.

Nhiều ngày nữa lại trôi qua, anh may mắn tìm thấy một nhà nghỉ ven đường. Anh dừng chân dùng bữa tối rồi ngủ một giấc dài…

Đến nửa đêm, anh chợt tỉnh giấc vì nghe thấy tiếng la hét thất kinh bên ngoài phòng trọ. Anh bước ra khỏi chăn và toan mở cửa xem điều gì đang diễn ra. Bất giác, anh nhớ lại lời khuyên thứ hai nên nén nỗi tò mò và quay trở lại giường.

Sáng hôm sau, khi dùng điểm tâm, người chủ nhà trọ hỏi rằng, liệu anh có nghe thấy tiếng la hét thất thanh đêm qua không. Anh đáp lại là có. Ông bèn hỏi tiếp:

«Anh không tò mò xem chuyện gì đang xảy ra sao?»

«Không, không hề!»

«Thật may mắn, anh là vị khách đầu tiên có thể sống sót mà rời khỏi đây. Trong làng chúng tôi có một con quỷ. Ban đêm, nó thường la hét để gây sự chú ý. Bất kỳ ai nghe thấy tiếng hét mà chạy tới đều sẽ rơi vào nanh vuốt con quỷ này…»

Anh lại tiếp tục cuộc hành trình của mình. Càng gần tới cố hương, anh lại càng hồi hộp và vui sướng. Ngày lại ngày, đêm lại đêm, đôi chân anh đã mệt mỏi rã rời. Cuối cùng anh cũng thấy thấp thoáng ánh lửa bập bùng trong túp lều thân quen.

Bầu trời đã tối lắm rồi, mà mái nhà của anh vẫn còn một quãng dài phía trước. Qua khung cửa sổ, anh thấy bóng dáng người vợ hiền mà anh luôn yêu tha thiết. Nhưng kìa, nàng không ở đó một mình mà còn xuất hiện một gã đàn ông nào đó… Nàng vuốt tóc hắn ta, có vẻ hai người rất tình cảm bên nhau.

Hình ảnh trước mắt khiến trái tim anh tan vỡ và cay đắng. Trong lòng anh sục sôi một nỗi tức giận và tủi nhục. Anh chỉ muốn chạy ngay đến để trút nỗi giận này. Nhưng rồi anh hít một hơi thật sâu để bình tĩnh lại khi nhớ đến lời khuyên thứ ba.

Anh dừng chân và quyết định ngủ lại bên ngoài. Nằm trên bãi cỏ giữa núi đồi và ngắm nhìn sao trời, anh tự nhủ sẽ chờ đến sáng mai.

Khi ánh bình minh ló rạng cũng là lúc anh lấy lại hoàn toàn bình tĩnh. Anh nói với chính mình:

«Ta sẽ không làm hại vợ ta và người tình của nàng. Ta sẽ trở lại bên ông chủ và yêu cầu ông chấp nhận ta làm việc thêm lần nữa. Nhưng trước khi lên đường, ta muốn gặp nàng để nói rằng ta vẫn luôn thủy chung với nàng…»

Anh ngập ngừng gõ cửa… Khi vợ anh mở cửa, cô đã òa lên hạnh phúc và ôm chầm lấy anh. Anh chỉ nhỏ nhẹ:

«Anh luôn một lòng một dạ với em, nhưng tại sao em lại phản bội niềm tin ấy?»

Lời kết tội như làm trái tim thắt lại, cô nói:

«Làm sao em có thể phản bội anh? Em không bao giờ làm điều gì trái với lương tâm mình. Em đã kiên nhẫn đợi chờ anh suốt 20 năm qua…»

«Vậy còn người đàn ông bên cạnh em đêm qua? Anh ta là ai chứ!»

Đến lúc này, cô mới mỉm cười:

«Đó là con trai chúng ta! Khi anh rời đi, em mới phát hiện rằng mình mang thai. Đến nay, con chúng ta đã 20 tuổi rồi».

Những lời nói ấy như dòng suối mát lành cuốn trôi nỗi buồn lo trong lòng anh. Anh cầu xin cô tha thứ, rồi bước vào phòng gặp người con trai anh chưa từng biết mặt. Sau đó, cả gia đình đoàn tụ trong bữa sáng mà vợ anh mới chuẩn bị. Anh lấy ra chiếc bánh mỳ cuối cùng và đặt lên bàn.

Khi cắt bánh mỳ làm ba phần đều nhau, anh bất ngờ khi nhìn thấy toàn bộ số tiền lương của 20 năm qua được giữ kín trong đó. Số tiền không chỉ là 20 năm mà còn vượt xa gấp nhiều lần.

Đức Chúa Trời cũng giống như ông chủ trong câu chuyện kể trên. Khi yêu cầu chúng ta cống hiến, ngài còn dành tặng chúng ta nhiều hơn những gì ta đã làm. Ngài muốn những đứa con của ngài có được trí huệ sáng suốt, và có cả những phúc lành xứng đáng…