Ba điều sướng nhất?
Ngày xưa, có ông lão cứ vui cười ca hát suốt ngày.
Thấy lạ, có người hỏi:
− Tại sao ông vui tươi mãi như thế?
Ông lão đáp:
− Trời sinh ra muôn loài muôn vật, trâu
chó dê ngựa… Người là sinh vật cao nhất, là «tối linh ư vạn
vật». Ta được làm người. Ấy là
điều sướng thứ nhất.
− Trời sinh có người tàn tật, đui què. Ta được lành lặn, ấy là điều sướng
thứ hai
− Người đời thường vì sự giàu có, danh vọng mà phải gian khổ. Ta có ăn đủ
một ngày ba bữa, không lo lắng gì cả. Ấy là điều sướng thứ ba
− Còn như sinh lão bệnh tử là điều không ai tránh được. Ta cũng như mọi
người, việc gì phải buồn.
− Nghĩ tới ba điều sướng ta có được, ta vui ca cũng là chuyện thường tình, mắc mớ chi phải hỏi.
(Trích Cổ Học Tinh Hoa)
ƠN ĐỜI CHỨA CHAN
(Một đoản văn hay)
Tuổi già,
buổi sáng thức dậy, nghe gân cốt đau rêm mà mừng, vì biết mình còn sống. Đại ý
viết như vậy, trong một cuốn sách Mỹ mà ông Tư đọc được, làm ông thấm thía cái
hạnh phúc lâng lâng của từng sớm mai khi vừa tỉnh giấc. Bạn bè cùng trang lứa
với ông, nhiều người đã về với Diêm Vương khi còn trẻ măng, vì cuộc tương tàn
khốc liệt dài ngày trên quê hương. Nhiều người khác gục ngã trong trại tù vì
đói khát, bệnh tật, mồ hoang vùi cạn. Một số khác nữa, vì khao khát tự do mà
chôn thân dưới đáy biển, hoặc chết khô giữa rừng sâu. Không ít người còn lại,
tử thần cũng đã đón mời vì bạo bệnh, khi tuổi năm sáu mươi. Phần ông vẫn còn
dai dẳng sống sót cũng là ân huệ trời ban, không vui hưởng tháng ngày, cũng
uổng lắm sao!
Ý nghĩ đó
làm ông mỉm cười sung sướng. Ông vẫn trùm thân trong chăn ấm. Tội chi mà dậy
sớm cho mệt. Mỗi khi nghe tiếng khởi động máy xe từ hàng xóm vọng qua trong
buổi tinh sương, ông càng vui sướng hơn, vì không còn phải vùng dậy giữa đêm
đen, lặn lội đi kiếm cơm hàng ngày như mấy gã trẻ tuổi ở cạnh nhà. Về hưu rồi,
mỗi tuần hưởng bảy ngày chủ nhật, bảy ngày thảnh thơi. Hết áp lực của công việc
hàng ngày, không phải lo lắng bị thất nghiệp khi kinh tế khủng hoảng xuống dốc.
Khoẻ re.
Cứ nằm
trùm chăn ấm nghe nhạc mềm văng vẳng ru đưa, phát ra từ cái radio nhỏ, có khi
ông chợp thêm được một giấc ngủ ngắn ngon lành. Ngủ chán thì dậy. Bước xuống
giường, dù khớp xương sưng đau, đi khập khễnh ông cũng thầm cám ơn cái chân
chưa liệt, còn lê lết được. Chưa phải nằm dán lưng vào giường như một số người
bất hạnh khác. Những kẻ này mà nhích được vài bước cà thọt như ông, thì chắc họ
cũng sướng rân người. Ông thầm bảo, có thêm được một ngày để sống, để vui, để
yêu đời. Bệnh hoạn chút chút, thì phải mừng, chứ đừng có nhăn nhó than vãn ỉ
ôi.
Mỗi khi
đánh răng rửa mặt, ông lầm thầm: «Mình
sướng như vua rồi, có nước máy tinh khiết để dùng. Giờ nầy, cả thế giới, có hơn
một tỉ người thiếu nước để nấu ăn, để tắm giặt và nhiều tỉ người khác không có
nước sạch, phải uống nước dơ bẩn.» Dù cái bàn chải đánh răng đang ngọ ngoạy
trong hàm, ông cũng ư ử hát ca. Khi áp cái khăn tẩm đầy nước lên mặt, ông cảm
được cái mát lạnh và niềm sung sướng chứa chan đang lan tỏa chạy khắp người.
Ông biết đang được ân sủng của trời đất ban cho trong tuổi già.
Ngồi lên
cái bồn cầu êm ái, nhà cầu sạch sẽ, trắng toát, thơm tho, không vướng một chút
mùi vị hôi hám, đèn đóm lại sáng trưng, có nhạc văng vẳng từ radio, ông cầm
cuốn sách thưởng thức chữ nghĩa của «thánh
hiền», tư tưởng của Đông Tây. Không bao giờ ông quên cùng giờ phút nầy, có
hơn ba tỉ nhân loại không có cầu tiêu để làm cái chuyện khoái lạc thứ tư. Có
người phải ra đồng lồng lộng gió, mà làm chuyện «nhất quận công, nhì ị đồng». Phải gấp gấp cho xong chuyện, không
nhẩn nha được, vì hai tay phải múa lia lịa hất ra đàng sau, để xua đuồi lũ ruồi
đồng đang vo ve «oanh tạc». Xong
việc, may mắn lắm thì có lá chuối khô mà lau chùi, còn không thì dùng đất cày,
đá cục, nắm cỏ, que nhánh cây tươi, khô. Ông cứ nhớ thời làm việc ở quận lị,
chỉ có nhà tiêu lộ thiên, hai tấm ván bắt ngang qua một hầm cầu lộ thiên, nắng
xông hơi phân người lên nóng hừng hực rát cả mặt, bên dưới giòi bọ lúc nhúc lổm
nhổm làm thành một tấm màn trắng-ngà chuyển động. Có con gà ở đáy hầm, nó đang
thưởng thức ngon lành món giòi bọ, thấy ông xuất hiện bất thần, sợ hãi hoảng
hốt đập cánh bay lên kêu quang quác và vung vãi ‘ám khí’ khắp trong không gian,
làm ông cũng khiếp viá, ôm đầu phóng chạy dài. Nghĩ đến chừng đó thôi là ông đủ
cảm được cái sung sướng đang có ngay bây giờ. Ngồi thật lâu, đọc cho xong mấy
trang sách, mới nhởn nhơ rời phòng.
Ông Tư tự
đãi một bình trà nóng, một ly cà phê thơm, rồi nấu nồi cháo gạo tẻ đặc rền ăn
với cá kho mặn. Dọn ra bàn, đèn vàng soi một khoảng ấm cúng. Ông thong thả vừa
hớp nhâm nhi, vừa ăn từng muỗng cháo, chất gạo béo tạo vị giác đi qua trong cổ
họng. Ông lầm thầm: «Ngon, cao lương mỹ
vị cũng không bằng». Ông thường ngâm nga hai câu thơ:
«Vợ cũ, chó già, tô cháo nóng.
Ba nguồn thân thiết dạt dào thương».
Ba nguồn thân thiết dạt dào thương».
Mắt ông
dán vào trang thơ đang cầm trên tay, gật gù thưởng thức ý lời hoa gấm. Ông trầm
mình vào những giòng thơ, tim xao xuyến xúc động mênh mang. Thỉnh thoảng ông
dừng lại, và nói nhỏ cho chính ông nghe: «Tiên
trên trời cũng chỉ sướng và thong dong như thế này là cùng». Ông nhớ đến
cái thời «tiến nhanh, tiến mạnh, tiến
vững chắc lên xã hội chủ nghĩa», buổi sáng bụng đói meo, vác cuốc đi làm
lao động tay chân nặng nhọc, ráng uống một bát nước lã để cầm hơi và đánh lừa
cái bụng đang sôi sồn sột. Bây giờ được như thế nầy, phải biết cám ơn ân sủng
của trời ban cho. Biết bao nhiêu tỉ người trên thế giới này mơ ước được có một
buổi sáng thảnh thơi và no ấm như ông mà không được nhỉ?
Nhìn xuyên
qua cửa phòng ngủ, ông thấy bà vợ nằm ngủ giấc yên bình, lòng ông dạt dào niềm
thương. Bà đã cùng ông mấy mươi năm dắt dìu nhau trong phong ba bão táp của
giòng đời nghiệt ngã. Đã chia sẻ ngọt ngào cũng như đắng cay của một thời khói
lửa điên đảo. Giờ này, may mắn vẫn còn có nhau trong cuộc đời, thương yêu thắm
thiết, nhường nhịn nâng đỡ chăm sóc ngày đêm. Không như những cặp vợ chồng già
khác, cứ lục đục gây gổ nhau, tranh thắng thua từng li từng tí, làm mất hạnh
phúc gia đình. Ông thương bà biết an phận thủ thường, không đứng núi ầy trông
qua núi nọ. Ông thấy bà hiền lành và có trái tim đẹp như thánh nữ. Ông muốn vào
phòng, hôn bà lên trán, nhưng ngại làm vợ mất giấc ngủ ngon buổi sáng. Ông lại
cám ơn trời đã đem bà buộc vào đời ông. Ông cười và nhớ câu nói của một nhà văn
nào đó: «Đời sống không thể thiếu đàn bà,
nhưng sống được với một người đàn bà không phải dễ.»
Ông Tư ra
vườn, một mảnh đất nhỏ trồng vài cây hoa, hương thơm thoang thoảng, có tiếng
chim kêu đâu đó líu lo vọng lại. Mấy đoá hoa sặc sỡ còn đọng sương đêm lóng
lánh. Nắng mai ấm áp phả lên da thịt ông, tạo thành một cảm giác dịu dàng, êm
ái. Ông vươn vai, xoay người trong thế thể dục chậm, xương sống được thư giãn
kêu răng rắc, đã đời. Hít thở và phất tay chừng mười lăm phút cho máu huyết lưu
thông. Loại thể dục nầy đã giúp ông bớt được những cảm mạo thông thường, ông
tin vậy.
Ông Tư
thay áo quần để đi ra đường. Cầm cái áo lành lặn bằng vải tốt trên tay, ông
thường nhớ đến thời đi tù, khâu bao cát làm áo, rách tả tơi, không đủ che gió
lạnh thấu xương của núi rừng. Thế mà cũng có nhiều tù nhân khéo tay và nghịch
ngợm, khâu bao cát thành bộ đồ lớn, đủ ba mảnh, và làm luôn cả cái «cà vạt», mang vào trông cũng sang trọng
như đi ăn đám cưới. Nhớ lại thời đó mà rùng mình. Còn sống sót, và đến được đất
nước tự do này, cũng là một điều mầu nhiệm lạ lùng.
Ông Tư đi
ra đường, xe cộ vùn vụt qua lại liên miên. Lề đường rộng, phẳng phiu, sạch sẽ.
Bên kia là giao điểm của hai xa lộ, các nhánh cầu cao đan uốn éo chồng chất lên
nhau, vòng vèo trên không, như những nùi rối. Ông Tư thầm cám ơn tiền nhân đã
đổ sức lực, mồ hôi, tài nguyên khai phá và xây dựng nên những tiện nghi nầy cho
ông nhảy xổm vào hưởng dụng, mà không ai có một lời ganh ghét, tị hiềm. Ông, từ
một trong những nước lạc hậu nhất của hành tinh nầy, bị chính quyền cuả xứ ông
bạc đãi, kỳ thị, kềm cặp và lấy hết các tự do cơ bản. Đến đất nước này, ông
được bình đẳng, có công ăn việc làm hợp với khả năng, con cái ông được đến
trường, học hành thành tài, có nghề nghiệp vững chắc và sống với mức trung lưu.
Ông cảm thấy còn nợ quê hương mới nầy quá nhiều thứ, từ tinh thần đến vật chất,
mà biết không bao giờ trả lại được một phần nhỏ nào. Ông Tư vừa đi bộ vừa ca
hát nho nhỏ.
Một người
cảnh sát cao lớn dềnh dàng đi ngược đường chào ông, ông chào lại bằng lời cám
ơn đã giữ gìn an ninh cho dân chúng sinh sống. Người cảnh sát cười và nói đó là
bổn phận, vì lương bổng của ông ấy được trả bằng thuế của dân chúng, trong đó
có ông. Ông Tư thấy trong lòng bình an, ông không làm điều gì phạm pháp, thì
không sợ ai cả. Ông đọc trong báo, thấy có những xứ, dù không làm gì sai quấy
cả, cũng bị cảnh sát giao thông chận lại đòi tiền, nếu không cho tiền, thì bị
quy kết đủ thứ tội mà mình không có.
Nắng chiếu
hoe vàng cả dãy phố của một ngày thu, ông Tư bước đi mà lòng rộn rã. Gặp ai
cũng chào, cười vui vẻ. Nghe ông chào hỏi nồng nhiệt, mọi người đều vui theo.
Thấy một ông cụ mặt mày đăm đăm rầu rĩ đi ngược đường, ông Tư lớn tiếng:
«Chào cụ? Có mạnh khỏe không? Hôm nay trời
nắng đẹp quá!»
Ông cụ trả
lời qua loa: «Tàm tạm, chưa chết! Chán
cái mớ đời.»
Ông Tư nói
to: «Việc chi mà chán đời cho mệt cụ ơi.
Chưa chết là vui lắm rồi. Cụ có biết là chúng ta đang sung sướng phước hạnh,
tội chi phí phạm thời gian để buồn nản?»
Ông cụ thở
dài: «Ai cũng có nhiều việc âu lo! Đời
đâu có giản dị! À, nầy, mà hình như ông đau chân, bước đi không được bình
thường? Thế thì vui nỗi gì? »
Ông Tư
cười lớn:«Vâng, tôi đau chân, nhờ đau
chân mà tôi thấy được niềm vui hôm nay lớn hơn, vì còn đi được, bước được, chứ
chưa phải nằm nhà. Cụ ơi, nếu lo âu mà giải quyết được những khó khăn, thì nên
lo. Nhưng nếu lo âu, mà không giải quyết chi được, thì hãy vui lên, cho đỡ phí
phạm ngày tháng trời cho».
Ông cụ già
lắc đầu bỏ đi.
Ông Tư xà
vào ngồi trên ghế đá mát lạnh của công viên dưới tàng cây có bóng nắng lung
linh. Nhìn bọn trẻ con chơi đùa la hét lăn lộn trên bãi cát, ông vui lây với
cái hồn nhiên của chúng. Bên kia đồi cỏ, có đôi nam nữ nằm dưới gốc cây, kê đầu
lên tay nhau, tóc đổ dài óng ánh, thỉnh thoảng vang tiếng cười rúc rích. Đất
nước nầy ấm no và thanh bình quá, sao có nhiều người còn kêu ca đời sống khó
khăn? Phải chăng những kẻ này chưa biết an phận, muốn được nhiều hơn điều đang
có, đang đủ. Không thấy được phước hạnh là lỗi tại họ.
Ông dong
tay bắt vài tấm lá rơi đang quay cuồng trong gió và lấy bút ghi lên mặt lá mấy
giòng thơ vừa thoáng qua trong trí để ca ngợi cuộc đời. Thấy bãi cỏ êm mát, ông
nằm dài, những vòng tròn sáng màu vàng rải rắc trên mgười ông. Gió hiu hiu mát
từ hồ nước vờn qua làm mơn trớn thịt da. Ông Tư rút từ túi quần một cuốn sách
nhỏ có nhan đề «14 ngàn điều làm nên hạnh
phúc». Tác giả tập sách nhỏ nầy, thấy đâu đâu cũng là hạnh phúc tràn đầy. Vấn đề là cảm nhận được cái sung sướng, cái hạnh phúc đang
có. Từ việc đặt chân lên một tấm thảm mềm êm ái, đến việc cắn một trái
ngọt chín mọng trong miệng, đến mơ mộng được hát trên bục một hộp đêm, nghe một
lời nói dịu dàng yêu thương…
Hạnh
phúc và sung sướng cảm nhận được từ những điều rất nhỏ nhặt, đơn sơ, tầm thường
nhất trong sinh hoạt hàng ngày. Không cần phải là ôm chặt người yêu trong vòng tay,
cũng chẳng phải vật nhau lăn lộn trên giường, cũng không cần đến việc cầm trong
tay cái vé số trúng độc đắc, hoặc làm chủ được một tòa lâu đài sang trọng… Ông
nghĩ, chắc sẽ có người cho tác giả tập sách nầy là kẻ «lạc quan tếu». Nhưng thà lạc quan tếu hơn
là bi quan. Đời nầy, có nhiều người đắm mình trong hạnh phúc, mà cứ
tưởng đang ngụp lặn trong bể khổ. Hoặc đang được phước hạnh mà không biết và
xem thường, chỉ khi mất đi, hay đã trôi qua, mới biết,
thì đã quá muộn màng.
Nắng đã
xông hơi nồng nóng, ông Tư đón chuyến xe buýt ra về. Cái vé xe cho người già rẻ
rề, chỉ bằng một phần ba vé bình thường. Ông nói lời cám ơn tài xế, và thấy
mang ơn những người cùng đi xe công cộng nầy, vì xem như họ đã gián tiếp gánh
một phần tiền vé cho ông.
Về nhà, bà
Tư đã dọn sẵn cơm trưa, mời ông rửa ráy cho sạch sẽ mà ra ăn. Thấy ly nước chanh
muối, ông cầm uống, chất nước ngọt ngào mằn mặn chua chua, ngon lành đi qua cổ
họng. Ông nhìn vợ với ánh mắt thương yêu và nói lời cám ơn cho bà vui. Chưa ăn,
mà thấy bát canh bông bí nấu tôm đã biết ngon. Những món ăn thanh đạm này, với
ông, còn ngon hơn sơn hào hải vị.
Ăn xong,
còn chút cơm thừa, bà Tư bỏ vào chén, cất vô tủ lạnh, không dám đổ đi, vì sợ
phí phạm của trời. Bà nhắc câu nói của ông: «Ngay giờ khắc nầy, trên thế giới có hơn năm trăm triệu người đang đói
rã, không có một miếng gì đề ăn, và có hơn vài tỉ người ăn chưa no bụng, và
nhiều tỉ người khác quần quật ngày đêm, cũng chỉ mong có đủ no mà thôi.» Đã
từng đói, nên ông bà không dám phí phạm thức ăn.
Ông Tư
mừng vì ăn còn thấy ngon miệng, không như một số người khác, ăn gì cũng như
nhai đất sét, không muốn nuốt, vì nhạt miệng, mất vị giác. Một số người khác
còn tệ hại hơn nữa, họ không còn ăn bằng miệng được, mà ăn bằng bụng, nhờ ống
dẫn thức ăn nối với dạ dày, như đổ xăng cho xe hơi.
Ông Tư
ngồi vào bàn mở máy vi tính lướt mau tin tức thế giới biến động. Đôi khi thấy giá
thị trường chứng khoán tụt dốc xuống thấp, làm nhiều nhà bình luận lo ngại.
Nhưng ông Tư cười, ông chẳng thèm để ý, không cần quan ngại chi cả. Chứng khoán
lên hay xuống, cũng thế thôi. Ông có lo ngại hay quan tâm cũng chẳng thay đổi
được gì. Với số tiền hưu khiêm tốn, và cách ăn tiêu trong khả năng tài chánh,
ông bà Tư chưa bao giờ thấy thiếu thốn cái gì. Có một ông bạn khoe rằng nay đã
thành triệu phú. Bà Tư đùa và hỏi, triệu phú thì khác người không là triệu phú
cái gì? Ông bạn lúng túng ấp úng không biết phải trả lời ra sao. Nhưng ông bà
Tư chắc chắn rằng, họ ít tiền, nhưng được sung sướng, đầy đủ hơn nhiều người
giàu triệu phú khác.
Ông Tư rà
mắt qua các tin tức và các biến cố mới nhất. Thật là tuyệt diệu và thần kỳ.
Chuyện vừa xảy trong giờ trước, đã được tường thuật ngay. Dạo một vòng tin tức
xong, ông quay qua mở vi-thư của bạn bè. Có những người bạn xa cách hàng ngàn
dặm, mấy chục năm nay chưa gặp lại nhau, mà thư từ qua lại liên miên, tưởng như
gần gũi trong gang tấc. Tha hồ hàn huyên tâm sự. Tình cảm qua lại thân thiết
chứa chan. Nhờ máy vi-tính, khi viết, tha hồ bôi xoá tẩy sửa lung tung, mà
không cần phải xé tờ nầy, viết lại tờ kia, vô cùng tiện lợi. Thư viết xong, chỉ
cần một cái nhấp con chuột, bạn ông nhận được ngay tức thì. Không cần phải nhờ
bưu điện chuyển đi có khi cả tuần mới đến. Hàng chục lá thư của bạn bè khắp nơi
trên thế giới chuyển đến ông đủ điều hay, lạ, nhiều bài thuốc hiệu nghiệm, trăm
bản nhạc du dương, ngàn hình ảnh tuyệt vời của các thắng cảnh thiên nhiên, các
đoạn phim ngắn đủ thể loại của nhiều vấn đề khác nhau. Ông cám ơn khoa học kỹ
thuật tiến bộ, đem thế giới mênh mông lại gần gũi trong không gian và cả thời
gian.
Mỗi khi
nghe tin một người già bệnh hoạn qua đời, ông Tư mừng cho họ thoát được thời
gian đau yếu sống không chất lượng. Nhiều người nằm liệt vài ba năm, không
sống, không chết. Còn có những kẻ phải cưa tay cưa chân. Ông vẫn thường mong
sau này, nếu được chết, thì chết mau chóng, yên lành, khỏi qua thời gian bệnh
hoạn lâu ngày.
Có một bạn
già mỉa mai, cho ông Tư là «kẻ tự sướng»
ông chỉ cười và nói : «Thà tự sướng hơn
là tự khổ»
Ông Tư
thường nghĩ rằng, ông đã và đang được quá nhiều phước hạnh của trời ban, nhiều
ân nghĩa của nhân loại, xã hội, nhiều tình thương của gia đình, bạn bè, người
quen và cả chưa quen. Ông thấy sung sướng hạnh phúc. Ông tội nghiệp cho những
người suốt đời than van, nắng không ưa, mưa không chịu, và tự bôi đen ngày
tháng đẹp đẽ của họ, và dìm đời vào bất mãn, khổ đau ./.
Phan Cao Tri
No comments:
Post a Comment