Tấm lòng lương thiện
Một công ty nọ có truyền thống tổ chức tiệc và rút thăm trúng thưởng vào
Giáng sinh mỗi năm. Theo quy định rút thăm trúng thưởng, mỗi thành viên tham
gia đều phải đóng góp 10 USD làm lệ phí.. Toàn công ty có 300 người, và phần
thưởng chính là tổng số tiền của 300 người gộp lại: 3.000 USD. Ai may mắn sẽ
được mang toàn bộ số tiền đó về nhà.
Vào ngày tổ chức lễ bốc thăm, không khí náo nhiệt tưng bừng hơn bao giờ
hết, ai nấy cũng mong đợi tới giờ vàng để thử vận may của mình. Mỗi người đều
được phát một mẩu giấy để ghi tên mình trước khi bỏ vào thùng bốc thăm trúng
thưởng. Và trong lúc chuẩn bị ghi tên, một cậu nhân viên trẻ chợt phân vân suy
nghĩ:
«Cô lao công Sarah là người có gia
cảnh khó khăn nhất, con cái lại mắc nhiều bệnh tật, mà cô thì không có tiền để phẫu
thuật cho con. Giá như cô có được số tiền này thì tốt biết mấy, nhưng cô lấy
đâu ra 10 USD để tham gia cơ chứ?».
Nghĩ rồi cậu không cần đắn đo mà quyết định sẽ ghi tên cô Sarah thay vì
ghi tên mình lên đó. Mặc dù vẫn biết cơ hội quá mong manh, chỉ có 1/300 cơ hội,
nhưng cậu vẫn cầu mong vận may mỉm cười với cô.
Tới lúc chuẩn bị rút thăm, không khí hồi hộp không kém phần căng thẳng.
Mọi người cùng nhìn lên khán đài khi giám đốc công ty chọn ra tấm phiếu may
mắn. Ở bên dưới, cậu thanh niên trẻ không ngừng cầu Chúa, cầu Chúa hãy giúp đỡ
cô Sarah…
Vị giám đốc từ từ mở mẩu giấy ra… Tích tắc, tích tắc, mọi người đều nín
thở chờ đợi đến mức tiếng kim đồng hồ cũng có thể nghe thấy. Khi nhìn vào cái
tên trên tấm phiếu may mắn ấy, giám đốc bất giác mỉm cười… rồi ông đọc to lên.
Và… kỳ tích thật sự đã xuất hiện! Khi cái tên Sarah được xướng lên, những tràng
vỗ tay chúc mừng vang lên không ngớt tràn ngập cả hội trường. Cô Sarah vừa vui
mừng vừa bất ngờ vì không biết mình được tham gia. Khi bước lên bục nhận phần
thưởng, cô rối rít cảm ơn: «Tôi thật may
mắn, có số tiền này con tôi được cứu rồi, cảm ơn mọi người, cảm ơn mọi người!».
Buổi tiệc diễn ra trong những tiếng nói cười và tiếng nâng ly chúc tụng.
Chàng nhân viên trẻ miên man suy nghĩ về cái kết có hậu của đêm Giáng sinh năm
ấy, bởi mọi thứ xảy ra như một kỳ tích. Cậu vừa bước dạo xung quanh vừa chúc
tụng mọi người một Giáng sinh vui vẻ. Vô tình đi qua thùng phiếu, thuận tay cậu
rút lấy 1 tờ ra xem, và… lạ chưa kìa, trên mảnh giấy đó có tên cô Sarah. Cậu
không dám tin vào mắt mình nên vội vàng rút ra thêm một mẩu giấy, và một mẩu
giấy nữa, tất đều có tên cô Sarah trên đó. Thì ra đã có rất nhiều người làm như
cậu, đều ghi tên Sarah trên tấm phiếu của mình.
Một nỗi xúc động dâng trào trong lòng cậu, giống như những cơn sóng thuỷ
triều dâng lên mãnh liệt. Hai mắt cậu đỏ lên, những giọt nước mắt hạnh phúc
không ngừng tuôn rơi. Cậu nhận ra một điều, thế giới này thực sự tồn tại «kỳ tích đêm Giáng sinh», chỉ có điều kỳ
tích đó không phải từ trên trời rơi xuống, mà nó được tạo ra bởi những con
người có tấm lòng lương thiện quanh ta.
Và thế giới này sẽ trở thành thiên đường mà không cần bạn phải là vĩ
nhân. Đôi khi bạn sẽ thấy những gì mình cho đi quá nhỏ nhoi, đến độ bạn thấy dù
có làm nó hay không thì cũng không có gì đáng kể. Tuy nhiên «Đừng thấy việc Thiện nhỏ mà không làm». Chỉ
cần bạn bắt đầu bằng một ngọn cỏ, thế giới sẽ trở thành cánh đồng hoa rực rỡ.
Người Ăn Mày
Một người ăn mày đến trước một trang viên, gặp nữ chủ nhân để ăn xin.
Người ăn mày này rất tội nghiệp, cánh tay bị cụt, tay áo trống trải đung đưa,
người nào trông thấy cũng đều khẳng khái bố thí cho. Tuy nhiên, vị chủ nhân này
lại không hề khách khí, chỉ ra đống gạch trước cửa nói với người ăn mày: «Ngươi giúp ta chuyển đống gạch này ra nhà
sau đi».
Người ăn mày giận dữ nói: «Tôi chỉ
có một tay, bà còn nhẫn tâm bảo vác gạch. Không muốn cho thì thôi vậy, cần chi
phải trêu ghẹo người khác?»
Vị chủ nhân không chút nổi giận, cúi người xuống bắt đầu dọn gạch. Bà ta
cố ý chỉ dùng một tay để chuyển, sau đó bà nói: «Ngươi thấy đấy, không phải chỉ dùng hai tay mới có thể sống được. Ngươi
có thể làm, vậy tại sao lại không làm chứ?»
Người ăn mày lặng người đi, hắn ta nhìn vị nữ chủ nhân với ánh mắt kỳ
dị, trái cổ nhô nhọn giống như một quả trám chuyển động lên xuống 2 lượt. Cuối
cùng, hắn cúi người xuống, dùng cánh tay còn lại bắt đầu chuyển gạch. Một lần
chỉ có thể chuyển đi hai viên gạch. Hắn chuyển như thế đúng hai tiếng đồng hồ
thì hết đống gạch. Mệt, hắn thở như bò kéo xe, trên mặt dính đầy bụi, mấy chòm
tóc rối bị mồ hôi ướt dính xéo trên góc trán.
Nữ chủ nhân đưa cho người ăn mày một cái khăn lông trắng như tuyết.
Người ăn mày đón lấy lau mặt và cổ một lượt rất kỹ; chiếc khăn lông trắng đã
biến thành chiếc khăn lông đen. Người phụ nữ lại đưa cho hắn 20 đô-la, người ăn
mày cảm kích nói: «Cảm ơn bà» - «Ngươi không cần cảm ơn ta, đây là tiền công
ngươi kiếm được dựa vào sức lực của mình».
Người ăn mày nói: «Tôi sẽ không
quên bà, để cho tôi giữ làm kỷ niệm vậy».
Nói xong, hắn cúi người chào thật thấp và sau đó lên đường.
Qua nhiều ngày sau lại có một người ăn mày khác đến trang viên này.
Người phụ nữ đó lại dẫn người ăn mày vào nhà sau, chỉ đống gạch, và nói: «Chuyển đống gạch này ra trước nhà, ta sẽ trả
cho ngươi hai mươi đô-la».
Người ăn mày với hai tay còn nguyên vẹn này bỏ đi, không biết là do
không thèm 20 đô-la hay do điều gì khác.
Người con của người phụ nữ không hiểu, liền hỏi mẹ: «Lần
trước mẹ kêu ăn mày chuyển đống gạch này từ trước nhà ra sau nhà. Lần này mẹ
lại kêu ăn mày chuyển gạch từ sau nhà ra trước nhà. Rốt cuộc mẹ muốn đống gạch
ở sau nhà hay là ở trước nhà?».
Người mẹ nói với con rằng: «Gạch đặt trước nhà hay sau nhà đều như nhau,
nhưng chuyển hay không chuyển, đối với người ăn mày mà nói, thì lại không giống
nhau».
Sau này cũng có mấy người ăn mày đến xin ăn, đống gạch đó được chuyển đi
mấy lượt.
Nhiều năm sau, có một người rất chỉnh tề đến trang viện này. Ông ta mặc
veston, mang giày da, trông chững chạc hiên ngang như những người thành công
với sự tự tin và tự trọng, chỉ có điều là người này chỉ có một cánh tay trái.
Ông ta cúi người xuống, nói với vị nữ chủ nhân nay đã có phần già đi: «Nếu
không có bà, tôi vẫn chỉ là một kẻ ăn mày. Thế nhưng bây giờ tôi là Chủ tịch
Hội đồng Quản trị của một công ty».
Người phụ nữ đã không còn nhớ ra ông là ai, bà hờ hững nói: «Đấy là
do chính bản thân ông làm ra mà thôi».
Người Chủ tịch Hội đồng Quản trị một tay mời người phụ nữ cùng cả nhà bà
dọn đến thành phố để sống những ngày thoải mái. Người phụ nữ nói: «Chúng
tôi không thể nhận sự chăm sóc của ông được» - «Tại sao?» - «Bởi vì cả nhà
chúng tôi ai cũng có hai tay».
Người chủ tịch tuy đau lòng nhưng vẫn kiên trì: «Thưa
bà, bà giúp tôi hiểu được thế nào là Nhân, thế nào là Cách. Căn nhà đó là tiền công mà bà đã dạy cho tôi».
Người phụ nữ nói: «Vậy thì ông đem
căn nhà ấy tặng cho người nào không còn cánh tay nào cả !»
Lời hiền triết
Có một vị hiền triết đã hỏi các đệ tử rằng:
«Tại sao trong cơn giận dữ người
ta thường phải thét thật to vào mặt nhau ?»
Sau một lúc suy nghĩ, một trong những đệ tử ấy đã trả lời:
«Bởi vì người ta mất bình tỉnh,
mất tự chủ!»
Vị hiền triết không đồng ý với câu trả lời, ngài bảo:
«Nhưng tại sao phải hét lên trong
khi cả hai đang ở cạnh nhau, tại sao không thể nói với một âm thanh vừa phải đủ
nghe ?»
Các đệ tử lại phải ngẫm nghĩ để trả lời nhưng không có câu giải thích
nào khiến vị thầy của họ hài lòng. Sau cùng ông bảo:
«Khi hai người đang giận nhau thì
trái tim của họ đã không còn ở gần nhau nữa. Từ trong thâm tâm họ cảm thấy giữa
họ và người kia có một khoảng cách rất xa, nên muốn nói cho nhau nghe thì họ
phải dùng hết sức bình sinh để nói thật to. Sự giận dữ càng lớn thì khoảng cách
càng xa, họ càng phải nói to hơn để tiếng nói của họ bao trùm khoảng cách ấy.»
Ngưng một chút, ngài lại hỏi:
«Còn khi hai người bắt đầu yêu
nhau thì thế nào? Họ không bao giờ hét to mà chỉ nói nhỏ nhẹ, tại sao? Bởi vì
trái tim của họ cận kề nhau. Khoảng cách giữa họ rất nhỏ…»
Rồi ngài lại tiếp tục:
«Khi hai người ấy đã yêu nhau thật
đậm đà thì họ không nói nữa, họ chỉ thì thầm, họ đã đến rất gần nhau bằng tình
yêu của họ. Cuối cùng ngay cả thì thầm cũng không cần thiết nữa, họ chỉ cần đưa
mắt nhìn nhau, thế thôi! Vì qua ánh mắt đó họ đã biết đối phương nghĩ gì, muốn
gì ..»
Ngài kết luận:
«Khi các con bàn cãi với nhau về
một vấn đề, phải giữ trái tim của các con lúc nào cũng cận kề. Đừng bao giờ
thốt ra điều gì khiến các con cảm thấy xa cách nhau… Nếu không thì có một ngày
khoảng cách ấy càng lúc càng rộng, càng xa thì các con sẽ không còn tìm ra được
đường quay trở về !»
Chuyện người Samurai ...
Người đánh cá nói: «Tôi xin lỗi,
nhưng năm vừa qua thật tệ, tôi không có đồng nào để trả ngài.»
Vị samurai nổi nóng, rút kiếm ra định giết người đánh cá ngay lập tức.
Rất nhanh trí, người đánh cá nói: «Tôi
cũng đã học võ và sư phụ tôi khuyên không nên đánh nhau khi đang tức giận.»
Vị samurai nhìn người đánh cá một lúc, sau đó từ từ hạ kiếm xuống. «Sư phụ của ngươi rất khôn ngoan. Sư phụ của
ta cũng dạy như vậy. Ðôi khi ta không kiểm soát được nỗi giận dữ của mình. Ta
sẽ cho ngươi thêm một năm để trả nợ và lúc đo chỉ thiếu một xu thôi chắc chắn
ta sẽ giết ngươi.»
Vị samurai trở về nhà khi đã khá muộn. Ông nhẹ nhàng đi vào nhà vì không
muốn đánh thức vợ, nhưng ông ta rất bất ngờ khi thấy vợ mình và một kẻ lạ mặt
mặc quần áo samurai đang ngủ trên giường. Nổi điên lên vì ghen và giận dữ, ông
nâng kiếm định giết cả hai, nhưng đột nhiên lời của người đánh cá văng vẳng bên
tai: «Ðừng hành động khi đang giận dữ.»
Vị samurai ngừng lại, thở sâu, sau đó cố tình gây ra tiếng động lớn. Vợ
ông thức dậy ngay lập tức, kẻ lạ mặt cũng vậy, hoá ra đó chính là mẹ ông.
Ông gào lên: «Chuyện này là sao
vậy. Suýt nữa con đã giết cả hai người rồi!»
Vợ ông giải thích: «Vì sợ kẻ trộm
lẻn vào nhà nên thiếp đã cho mẹ mặc quần áo của chàng để doạ chúng.»
Một năm sau, người đánh cá gặp lại vị samurai. «Năm vừa qua thật tuyệt vời, tôi đến để trả nợ cho ngài đây, có cả tiền
lãi nữa», người đánh cá phấn khởi nói.
«Hãy cầm lấy tiền của ngươi đi.»
Vị samurai trả lời, «Ngươi đã trả nợ rồi.»
Hòn Ðá Ném Ði
Văn hào Nga Leon Tonstoï có kể câu chuyện ngụ ngôn như sau: Có một người
hành khất nọ đến trước cửa nhà của một người giàu có để xin bố thí. Một đồng xu
nhỏ hay một miếng bánh vụn, đó là tất cả những gì người ăn xin chờ đợi nơi
người giàu có. Nhưng, mặc cho người khốn khổ van xin, người giàu có vẫn ngoảnh
mặt làm ngơ. Ðến một lúc không còn chịu nổi những lời van xin của người hành
khất, thay vì bố thí, người giàu đã lấy đá ném vào con người khốn khổ.
Người hành khất lặng lẽ nhặt lấy hòn đá cho vào bị rồi thì thầm trong
miệng: «Ta mang hòn đá này cho đến ngày
nhà người sa cơ thất thế. Ta sẽ dùng nó để ném trả lại ngươi».
Ði đâu, người hành khất cũng mang theo hòn đá ấy. Tâm hồn ông lúc nào
cũng cưu mang sự báo thù.
Năm tháng qua đi. Lời chúc dữ của người hành khất đã thành sự thật. Vì
biển lận, người giàu có bị tước đoạt tất cả tài sản và bị tống giam vào ngục.
Ngày hôm đó, người hành khất chứng kiến cảnh người ta áp giải người giàu vào tù
ngục. Nỗi căm hờn sôi sục trong lòng ông. Ông đi theo đoàn người áp tải. Tay ông không rời bỏ hòn đá mà người giàu đã ném vào
người ông cách đây mười mấy năm. Ông muốn ném hòn đá đó vào người tù để rửa
sach mối nhục hằng đeo đẳng bên ông. Nhưng cuối cùng, nhìn thấy gương mặt tiều
tụy đáng thương của kẻ đang bị cùm tay, người hành khất thả nhẹ hòn đá xuống
đất rồi tự nhủ: «Tại sao ta lại phải mang
nặng hòn đá này từ bao nhiêu năm qua? Con người này, giờ đây, cũng chỉ là một
con người khốn khổ như ta».
Cô giáo và cậu học trò lớp năm
Câu chuyện đã xảy ra từ nhiều năm trước. Lúc đó, cô Thompson đang dạy
tai trường tiểu học của một thị trấn nhỏ tại Hoa Kỳ.
Vào ngày khai giảng năm học mới, cô đứng trước những em học sinh lớp 5,
nhìn cả lớp và nói cô sẽ yêu thương tất cả các học sinh như nhau. Nhưng thực ra
cô biết mình sẽ không làm được điều đó bởi cô đã nhìn thấy cậu học sinh Teddy
Stoddard ngồi lù lù ngay bàn đầu. Năm ngoái cô đã từng biết Teddy và thấy cậu
bé chơi không đẹp với bạn bè, quần áo thì lôi thôi lếch thếch, còn người ngợm
thì lại quá bẩn thỉu. «Teddy trông thật
khó ưa».
Chẳng những thế, cô Thompson còn dùng cây bút đỏ vạch một chữ thập rõ
đậm vào hồ sơ cá nhân của Teddy và ghi chữ F đỏ chói ngay phía ngoài (chữ F là
hạng kém).
Ở trường này, vào đầu năm học mỗi giáo viên đều phải xem thành tích học
tập của từng học sinh trong lớp mình chủ nhiệm. Cô Thompson đã nhét hồ sơ cá
nhân của Teddy đến cuối cùng mới mở ra xem, và cô rất ngạc nhiên về những điều
đọc được.
Cô giáo phụ trách lớp 1 đã nhận xét Teddy như sau: «Teddy là một đứa trẻ thông minh và luôn vui vẻ. Học giỏi và chăm
ngoan... Em là nguồn vui cho người chung quanh».
Cô giáo lớp 2 nhận xét: «Teddy là
một học sinh xuất sắc, được bạn bè yêu quý nhưng có chút vấn đề vì mẹ em ốm
nặng và cuộc sống gia đình thật sự là một cuộc chiến đấu».
Giáo viên lớp 3 ghi: «Cái chết của
người mẹ đã tác động mạnh đến Teddy. Em đã cố gắng học, nhưng cha em không mấy
quan tâm đến con cái và đời sống gia đình sẽ ảnh hưởng đến em nếu em không được
giúp đỡ».
Giáo viên chủ nhiệm lớp 5 nhận xét: «Teddy
tỏ ra lãnh đạm và không tỏ ra thích thú trong học tập. Em không có nhiều bạn và
thỉnh thoảng ngủ gục trong lớp».
Đọc đến đây, cô Thompson chợt hiểu ra vấn đề và cảm thấy tự hổ thẹn.
Cô còn thấy áy náy hơn khi đến lễ Giáng sinh, tất cả học sinh trong lớp
đem tặng cô những món quà gói giấy màu và gắn nơ thật đẹp, ngoại trừ món quà
của Teddy. Em đem tặng cô một gói quà bọc vụng về bằng loại giấy gói hàng nâu
xạm màu mà em tận dụng lại từ loại túi giấy gói hàng của tiệm tạp hóa. Cô
Thompson cảm thấy đau lòng khi mở gói quà ấy ra trước mặt cả lớp. Một vài học
sinh đã bật cười khi thấy cô giơ lên chiếc vòng giả kim cương cũ đã sút mất vài
hột đá và một chai nước hoa chỉ còn lại một ít. Nhưng cô đã dập tắt những tiếng
cười nhạo kia khi cô khen chiếc vòng đẹp, đeo nó vào tay và xịt một ít nước hoa
trong chai lên cổ tay. Hôm đó Teddy đã nán lại cho đến cuối giờ để nói với cô: «Thưa cô, hôm nay cô thơm như mẹ em ngày xưa».
Sau khi đứa bé ra về, cô Thompson đã ngồi khóc cả giờ đồng hồ. Và chính
từ hôm đó, ngoài dạy học cô còn lưu tâm chăm sóc cho Teddy hơn trước. Mỗi khi
cô đến bàn em để hướng dẫn thêm, tinh thần Teddy dường như phấn chấn hẳn lên.
Cô càng động viên em càng tiến bộ nhanh. Vào cuối năm học, Teddy đã trở thành
học sinh giỏi nhất lớp. Và trái với phát biểu của mình vào đầu năm học, đã
không yêu thương mọi học sinh như nhau. Teddy là học trò cưng nhất của cô.
Một năm sau, cô tìm thấy một mẩu giấy nhét qua khe cửa. Teddy viết: «Cô là cô giáo tuyệt vời nhất trong đời em».
Sáu năm sau, cô lại nhận được một bức thư ngắn từ Teddy. Cậu cho biết đã
tốt nghiệp trung học, đứng hạng ba trong lớp và «Cô vẫn là người thầy tuyệt vời nhất trong đời em».
Bốn năm sau, cô lại nhận được một lá thư nữa. Teddy cho biết dù hoàn
cảnh rất khó khăn khiến cho cậu có lúc cảm thấy bế tắc, cậu vẫn quyết tốt
nghiệp đại học với hạng xuất sắc nhất, nhưng «Cô vẫn luôn là cô giáo tuyệt vời mà em yêu quý nhất trong đời».
Rồi bốn năm sau nữa cô nhận được bức thư trong đó Teddy báo tin cho biết
cậu đã đậu tiến sĩ và quyết định học thêm lên. «Cô vẫn là người thầy tuyệt nhất của đời em», nhưng lúc này tên cậu
đã dài hơn. Bức thư ký tên Theodore F. Stoddard - giáo sư tiến sĩ.
Câu chuyện vẫn chưa kết thúc tại đây. Một bức thư nữa được gửi đến nhà
cô Thompson. Teddy kể cậu đã gặp một cô gái và cậu sẽ cưới cô ta. Cậu giải
thích vì cha cậu đã mất cách đây vài năm nên cậu mong cô Thompson sẽ đến dự lễ
cưới và ngồi ở vị trí vốn thường được dành cho mẹ chú rể.
Và bạn thử đoán xem việc gì đã xảy ra? Ngày đó, cô đeo chiếc vòng kim
cương giả bị rớt hột mà Teddy đã tặng cô năm xưa, xức thứ nước hoa mà Teddy nói
mẹ cậu đã dùng vào kỳ Giáng sinh cuối cùng trước lúc bà mất.
Họ ôm nhau mừng rỡ và giáo sư Stoddard thì thầm vào tai cô Thompson: «Cám ơn cô đã tin tưởng em. Cám ơn cô rất
nhiều vì đã làm cho em cảm thấy mình quan trọng và cho em niềm tin rằng mình sẽ
tiến bộ».
Cô Thompson vừa khóc vừa nói nhỏ với cậu:
«Teddy, em nói sai rồi. Chính em
mới là người đã dạy cô rằng cô có thể sống khác đi. Cô chỉ biết thế nào là dạy
học kể từ khi cô được gặp em».
No comments:
Post a Comment